The Mossad, tên đầy đủ là "Cơ quan Tình báo và Đặc nhiệm của Israel". Trên thực tế, cơ quan này có lịch sử không dài, được thành lập vào năm 1951. Nhiệm vụ chính của cơ quan này là thu thập thông tin tình báo ở nước ngoài và ám sát. Là một ngôi sao đang lên trong cộng đồng tình báo, Mossad đã được coi là một trong bốn khối điệp viên hàng đầu thế giới nổi lên trong một thời gian ngắn với cá tính nổi bật là "những kẻ tàn nhẫn và ít nói", sánh vai cùng với Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ, MI6 của Anh và KGB của Liên Xô, có khi lại vượt hơn. Trận chiến nổi tiếng của Mossad là truy đuổi tàn dư Đức Quốc xã Adolf Eichmann. Năm 1961, các điệp viên Mossad đã nhập cảnh vào Argentina bằng hộ chiếu giả. Sau khi săn lùng cẩn thận, họ tìm thấy Eichmann, người đã làm phẫu thuật thẩm mỹ trong nhiều năm và đang che giấu danh tính của mình. Cuối cùng, Eichmann bị đánh thuốc mê và bắt cóc. Thông qua lập hồ sơ bệnh án giả, Mossad đàng hoàng đưa Eichmann trở lại Israel để xét xử và đưa lên giá treo cổ. Điều làm nên sự nổi tiếng của Mossad chính là "Chiến dịch sự phẫn nộ của Chúa trời" cũng được gọi là Chiến dịch Bayonet, là một chiến dịch mật do Mossad tiến hành nhắm tới các cá nhân được cho là có liên quan tới vụ thảm sát Munich năm 1972 trong đó 11 thành viên đội tuyển Olympic Israel đã bị giết hại. 11 vận động viên Israel tham gia Thế vận hội đã bị những tên khủng bố "Black September" người Palestine giết chết. Mossad ăn miếng trả miếng, thành lập nhiều đội ám sát để truy lùng 10 tên khủng bố "Tháng chín đen” có liên quan đến vụ thảm sát. Phải đến vụ ám sát thứ 11 tại Warsaw, Ba Lan, một tên trúng năm viên đạn vẫn sống sót sau thảm họa, mới gây ra phản ứng dữ dội trên toàn thế giới. Trong chiến dịch ám sát kéo dài 9 năm, các điệp viên Mossad đã sử dụng đủ mọi thủ đoạn như bắn súng, đầu độc, mỹ nhân kế, bom xe, bom giường, bom điện thoại và các chiêu độc lạ khác, chắc chắn còn thú vị hơn cả điệp viên trong phim 007. Ví dụ, khi ám sát Salama, kẻ lập kế hoạch chính của "Black September", tại Beirut, Lebanon, Mossad đã sử dụng điệp viên xinh đẹp Penelope, cải trang thành người ủng hộ PLO, để tiếp cận Salama bằng nhan sắc của mình, tìm ra tung tích của hắn ta và cuối cùng giết chết hắn bằng một quả bom cài xe. Khi ám sát Hamshari, một đại diện của PLO, tại Paris, Pháp, các điệp viên Mossad đã cài một quả bom điều khiển từ xa vào điện thoại nhà riêng của Hamshari, và kích nổ nó để giết ông ta sau khi Hamshari trả lời điện thoại xác nhận danh tính của mình. Khi ám sát Abadeshir ở Síp, các chuyên gia nổ mìn của Mossad đã phát triển một quả bom giường có thể kích hoạt công tắc áp suất khi một người nằm xuống, và các điệp viên bên ngoài có thể kích nổ nó từ xa...
Một trong những kiệt tác hoàn hảo của Mossad là "Vụ ám sát bằng sô cô la". Năm 1976, Wadi Haddad, thủ lĩnh của Mặt trận Giải phóng Nhân dân Palestine, đã lên kế hoạch cho vụ cướp máy bay Air France gây chấn động. Để giải cứu những hành khách Do Thái trên máy bay, Israel đã xây dựng một kế hoạch đột kích gần như hoàn hảo trên một ngàn dặm và giải cứu thành công hầu hết các hành khách ở Uganda. Nhưng Haddad, kẻ chủ mưu đằng sau vụ việc, đã trốn sang Baghdad, Iraq và ẩn náu. Sau một thời gian dài theo dõi, Mossad đã kích động những người xung quanh Haddad nổi loạn. Theo sở thích ăn sô cô la của hắn, một hộp sô cô la cao cấp được sản xuất tại Bỉ đã được tùy chỉnh và đầu độc đặc biệt và gửi đi. Loại chất độc mãn tính này sẽ không giết chết người ngay lập tức, nhưng sẽ gây ra các triệu chứng tương tự như bệnh bạch cầu. Haddad qua đời sáu tháng sau đó, và trong một thời gian dài, thế giới bên ngoài nghĩ rằng hắn ta chết vì bệnh.
Loại thủ đoạn xuất quỷ nhập thần này đã được sử dụng đến mức cực đoan trong vụ ám sát thủ lĩnh Hamas Mabahouh vào tháng 1 năm 2010. Mười một điệp viên Mossad, đóng giả làm khách du lịch, mang theo hộ chiếu giả từ Anh, Pháp, Đức, Ireland và các nước khác và bay từ các nước khác nhau đến Dubai, UAE, nơi mục tiêu đang ẩn náu. Họ đã phân công rõ ràng và sử dụng phương pháp đầu độc chỉ trong năm giờ để tạo ra ảo giác rằng mục tiêu đã chết vì một cơn đau tim đột ngột mà không để lại bất kỳ dấu vết nào, thậm chí còn lừa dối bác sĩ pháp y thực hiện khám nghiệm tử thi. Sau đó, họ rời đi. Mãi đến sau này, cảnh sát Dubai mới phát hiện ra điều gì đó bất thường trong hệ thống giám sát của khách sạn khiến họ nghi ngờ đó là một vụ ám sát, nhưng họ vẫn không biết đó là loại thuốc độc gì.
Để tránh gây sự chú ý và hại lây người vô tội, Mossad thường chọn ám sát trong im lặng đối với mục tiêu của mình, nhưng thỉnh thoảng, để răn đe khủng bố, họ sẽ chọn "giết người công khai" với tiếng động lớn, giống như vụ ám sát các nhà khoa học hạt nhân Iran lần này. Ví dụ, vào tháng 4 năm 1988, để giết Abu Jihad, một nhân vật chủ chốt trong Tổ chức Giải phóng Palestine, các điệp viên Mossad đã lẻn vào Tunisia, đầu tiên sử dụng máy gây nhiễu công nghệ cao để cắt đứt mọi tín hiệu liên lạc trong khu vực mục tiêu, sau đó phá cửa xông vào. Một chục tay súng đã bắn 52 phát đạn vào Jihad. Một ví dụ khác là vào năm 2004, ba tên lửa đã được phóng từ một chiếc trực thăng ở nơi công cộng và trực tiếp thổi bay nhà lãnh đạo tinh thần của Hamas, Hasin thành từng mảnh. Người kế nhiệm của ông, Rantisi, cũng bị tên lửa truy hồn đưa về với thánh Allah chỉ 25 ngày sau khi nhậm chức. Hầu hết các cuộc truy lùng của những người kế nhiệm sau này cũng áp dụng phương pháp răn đe này.
Ngày nay, hãy nhìn vào những kẻ khủng bố đã từng nói năng hung dữ táo bạo, ít tay còn dám thò đầu ra to tiếng. Một câu trong kinh Talmud của người Do Thái được cho là khẩu hiệu hoạt động của Mossad: "Nếu ai đó muốn giết bạn, bạn phải Tiên hạ thủ vi cường”tức nên ra tay trước. Lần này Israel ra tay đánh Iran trước cũng căn cứ vào lời dạy này. Để đến khi Iran có bom nguyên tử thì đã quá muộn.
Theo số liệu thống kê từ cuốn sách "Rise and Kill First - history of Israel's targeted assassinations “ (Ra tay trước - lịch sử các vụ ám sát có chủ đích của Israel) của nhà báo Israel Ron Bergman phát hành vào tháng 1 năm 2018, Mossad đã thực hiện hơn 2.300 vụ ám sát có chủ đích. Trong số đó, những vụ được ghi chép đầy đủ bao gồm cái chết của thủ lĩnh Hezbollah Mughniyeh trong một vụ đánh bom xe ở thủ đô Damascus của Syria năm 2008; cái chết của giám đốc vận chuyển vũ khí Hamas Bahouh bị ngạt thở bằng một chiếc gối trong một khách sạn ở Dubai năm 2010; vụ bắn chỉ huy quân sự Hezbollah Rakchis ở Beirut, Lebanon năm 2013; và cái chết của kỹ sư người Tunisia Zouari, người đã sản xuất máy bay không người lái cho Hamas năm 2016... Kẻ chủ mưu đằng sau tất cả những hành động này chính là Mossad.
Tất nhiên, có nhiều trường hợp hành động của Mossad đã thất bại. Ví dụ, trong "Chiến dịch sự phẫn nộ của Chúa trời", một số người qua đường vô tội đã bị giết hại vì xác định sai mục tiêu và di chuyển quá mức. Mặc dù chính phủ Israel đã bồi thường, nhưng cũng khiến Mossad được khen ngợi và cũng bị chỉ trích với áp lực rất lớn. Nhưng Mossad phục vụ an ninh quốc gia của Israel chứ không màng danh tiếng của thế giới. So với những cống hiến của họ cho Israel, đánh giá của người ngoài cuộc không thể làm thay đổi được ý chí của họ.
Tương tự như vụ Hamas đột kích Israel trực tiếp từ Dải Gaza, gây ra tổn thất lớn cho nước này. Trong quá trình này, Israel hoàn toàn không chuẩn bị và bị bất ngờ, được coi là thất bại của cộng đồng tình báo Israel. Conricks, cựu phát ngôn viên của Lực lượng Phòng vệ Israel, thậm chí còn nói với CNN rằng "đây là Trân Châu Cảng của Israel" và "toàn bộ hệ thống tình báo đã không cung cấp được biện pháp phòng thủ an ninh cần thiết cho người dân Israel". Tuy nhiên, mặc dù lần này Israel bị bất ngờ, một báo cáo sau đó cho thấy các cơ quan tình báo của Israel thực sự đã có được thông tin tình báo này vào năm 2022, nhưng giới lãnh đạo Israel đã không coi trọng thông tin tình báo này. Họ tin rằng Hamas không có khả năng như vậy. Các sự kiện xảy ra vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 đã chứng minh rằng thông tin tình báo này là đúng. Cho dù các vụ ám sát phủ đầu và tàn nhẫn của Mossad có hiệu quả hay không, thì con đường phát triển của Israel ở Trung Đông bị bao vây bởi những kẻ thù hùng mạnh trong vài thập kỷ qua có thể là câu trả lời mạnh mẽ nhất. PLO, Hamas, Hezbollah hùng mạnh... đã liên tiếp suy yếu và không còn dám gây rắc rối nữa. Đây là một bằng chứng rõ ràng. Khi những kẻ khủng bố chỉ nghe hiểu đạn và chỉ sợ đạn, thì việc nói về công lý và ràng buộc đạo đức là vô ích.
Có thể nói chắc chắn rằng Hoa Kỳ đã thay đổi phong cách trong quá khứ của mình trong những năm gần đây và bắt đầu thúc đẩy mạnh mẽ chiến lược chặt đầu. “Trên đầu ba thước có máy bay không người lái”phần lớn được thúc đẩy bởi hiệu ứng chặt đầu rắn của Israel. Tất nhiên, có thể cho rằng giọng điệu của Iran sẽ tiếp tục như xưa. Với sự hỗ trợ công khai hoặc bí mật của một số quốc gia, tiếng kêu gào của họ để xóa sổ Israel và đánh bại Hoa Kỳ chắc chắn sẽ còn tiếp tục dưới lá cờ đẫm máu, nhưng phản ứng của thế giới đối với họ có thể chỉ là ngày càng nhiều cái tát vào mặt.
Trong thế giới ngày nay, luận về tình báo và ám sát thì Mossad đứng hàng đầu. Mossad được thành lập bởi Thủ tướng đầu tiên của Israel là David Ben-Gurion vào năm 1951, khi Israel mới chỉ được lập quốc được bốn năm và bị kẻ thù bao vây và các nước Ả Rập đang thèm muốn nuốt chửng nó. Ben-Gurion tin rằng Israel không có chiều sâu phòng thủ và chỉ có thể dựa vào các cơ quan tình báo để cung cấp "tuyến phòng thủ đầu tiên" khi "bị kẻ thù bao vây", tức là cung cấp cho Israel khả năng cảnh báo sớm mạnh mẽ. Kể từ khi thành lập, người đứng đầu Mossad đều báo cáo trực tiếp với Thủ tướng và đã thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ ám sát, giải cứu và tình báo trong hơn nửa thế kỷ. Thậm chí còn huyền thoại hơn là Mossad còn có khả năng đánh cắp bản thảo bài phát biểu của nhà lãnh đạo Liên Xô Khrushchev, bản vẽ thiết kế máy bay chiến đấu Mirage của Pháp và thông tin mật về các cơ sở hạt nhân của Iran. Nói về lịch trình huyền thoại của Mossad, trải nghiệm tình báo ấn tượng nhất có lẽ là việc đánh cắp được bài phát biểu của Khrushchev trước khi ông ta phát biểu. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20, Khrushchev đã làm một "báo cáo mật", tất nhiên là tuyệt mật. Nhưng không ngờ, ngay sau khi Khrushchev soạn thảo xong, đã bị rò rỉ. Mặc dù CIA của Hoa Kỳ đã cố gắng hết sức để tìm kiếm "báo cáo mật" này, nhưng Mossad của Israel mới thực sự có trong tay "báo cáo mật" này, điều này khiến mọi người ngạc nhiên hết sức. Khi Trump tuyên bố rút khỏi Thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2018, để ủng hộ Trump, Netanyahu đã công bố một lượng lớn thông tin về "chương trình hạt nhân" của Iran mà Mossad có được. Mặc dù một số tài liệu này đã lỗi thời, nhưng mọi người đều kinh ngạc về một điều: rất nhiều thông tin mật phải là "tối mật" ở Iran, làm thế nào Mossad có thể đánh cắp chúng mà không ai phát hiện.
Năm 1997, khi Netanyahu lần đầu tiên làm Thủ tướng Israel, ông đã ra lệnh đầu độc thủ lĩnh Hamas Mashaei. Các điệp viên Mossad đã công khai và cưỡng bức tiêm thuốc độc cho Mashaei trên đường phố Amman, thủ đô của Jordan. Vua Jordan khi đó rất tức giận. Theo quan điểm của ông, Israel đang công khai làm nhục Jordan. Vì vậy, Vua Jordan đã đe dọa rằng "nếu Israel không đưa thuốc giải độc, ông sẽ treo cổ thủ phạm và xóa bỏ hiệp ước hòa bình với Israel". Netanyahu đành phải nhượng bộ và cung cấp thuốc giải độc, đồng thời đồng ý thả thủ lĩnh tinh thần Hamas Yassin. Tuy nhiên, Yassin đã bị giết bằng một tên lửa ở Thành phố Gaza bảy năm sau đó. Lãnh đạo kế nhiệm của Hamas cũng bị Mossad giết chết tại Thành phố Gaza bằng phương pháp tương tự chưa đầy một tháng sau đó. Israel đã tiến hành một cuộc không kích lớn vào Iran vào thứ Sáu tuần trước, ám sát một số nhà lãnh đạo quân sự và khoa học hàng đầu của Cộng hòa Hồi giáo. Israel cho biết họ "không có lựa chọn nào khác" vì chương trình hạt nhân của Iran tiến triển nhanh chóng và các cuộc đàm phán giữa Tehran và Hoa Kỳ diễn ra chậm chạp.
Từ năm 2010, Mossad của Israel, một cơ quan tình báo đầy phép lạ, đã có liên quan đến các vụ ám sát chính xác ít nhất bốn nhà khoa học Iran khác. Vụ việc khét tiếng nhất là vụ ám sát Mohsen Fakhrizadeh vào năm 2020, một giáo sư vật lý được các quan chức Israel và phương Tây coi là cha đẻ của chương trình vũ khí hạt nhân của Iran. Vụ ám sát được Mossad lên kế hoạch bên ngoài Iran và thực hiện bằng súng máy chạy bằng AI gắn trên một chiếc xe tải gần đó. Khi Fakhrizadeh lái xe ngang qua, thiết bị này đã bắn 13 phát vào mặt ông, giết chết ông trong vòng chưa đầy một phút, trong khi vợ ông, người ngồi cách đó chỉ vài inch, không hề sây sát một sợi tóc. Vụ tấn công đã thành công mặc dù Fakhrizadeh được một đội an ninh gồm 11 người đi cùng. Vụ việc diễn ra sau một loạt các vụ ám sát có chủ đích vào đầu những năm 2000 theo một mô típ tương tự, với việc Mossad nhắm vào các nhà khoa học đang trên đường đi làm.
Năm 2010, nhà vật lý hạt nhân Iran Masoud Ali Mohammadi đã thiệt mạng khi một quả bom gắn vào xe máy của ông được kích nổ từ xa khi ông rời khỏi nhà ở phía bắc Tehran, nơi ông giảng dạy tại Đại học Tehran. Cuối năm đó, một nhà khoa học hạt nhân khác, Giáo sư Majid Shahriari, đã thiệt mạng tại thủ đô khi hai người đi xe máy tiếp cận ông và gắn một quả bom từ tính vào xe của ông. Năm 2012, phó giám đốc cơ sở làm giàu uranium của Iran, 32 tuổi, đã bị giết như một cảnh quay theo phong cách Hollywood khi hai sát thủ đi xe máy gắn một quả bom từ tính vào chiếc xe Peugeot của ông khi ông đang trên đường đi làm ở Tehran. Fereydoun Abbasi, cựu giám đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Iran, người đã sống sót sau một vụ ám sát năm 2010, nằm trong số các nhà khoa học thiệt mạng vào thứ Sáu tuần vừa rồi. Mohammad Mehdi Tehranchi, hiệu trưởng Đại học Hồi giáo Azad của Tehran, cũng đã thiệt mạng trong một cuộc không kích của Israel vào một trung tâm chỉ huy quân sự của Iran. Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu cho biết vào thứ Sáu rằng mục tiêu của ông là loại bỏ mọi mối đe dọa mà Iran gây ra cho Israel. Sau vụ tấn công đầu tiên, Iran bắt được hai nội gián và treo cổ ngay tức thì. Không có nội gián chắc chắn Israel không thể biết được cuộc họp của các tướng lĩnh và nhà khoa học diễn ra vào địa điểm nào, giờ nào để đánh một mẻ lưới quá đẫy.
Một phây bốc cờ dương dương tự hào nói:”Thua hết Việt Nam, lãnh đạo của chúng ta không ai bị ám sát bởi tình báo ta là nhất!”. Ồ nhỉ! Tình báo ta là thiên la địa võng, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Hồi máy bay Mỹ bắn phá miền Bắc, mỗi công dân là một tình báo viên. Chị quét rác, ông xích lô, cậu bé bơm xe đầu phố hay bất cứ ai, đều cảnh giác cao độ đề phòng gián điệp chỉ điểm cho máy bay địch oanh tạc quán xôi chè bà Thứ ở đầu phố hàng Phèn….kkk
(Kính
dâng hương hồn các chiến sĩ tình báo của VNCH bị thảm sát bởi những tay
sai của Việt Cộng núp dưới danh nghĩa các lãnh tụ đảng phái chính trị
và các lãnh tụ tôn giáo)
Từ
sau năm 2005, nhất là sau khi ông Phạm Xuân Ẩn qua đời , mỗi năm vào
dịp 30 tháng 4, người ta lại đăng lại bài viết của ký giả Hoa Kỳ viết về
ông cùng một số bài viết của một số tác giả khác (người Việt Nam và có
lẽ là phía “bên thắng cuộc”). Những người viết về ông Phạm Xuân Ẩn đã
khéo tặng ông danh xưng “người điệp viên hoàn hảo” và nêu bật thành tích
của ông là đã cứu thoát bác sĩ Trần Kim Tuyến – Trùm Mật Vụ của chế độ
VNCH – vào lúc Sài Gòn đang trong tình trạng “dầu sôi lửa bỏng” sắp sửa
rơi vào vòng tay của bộ đội Cộng Sản Bắc Việt. Những gì đã được viết ra
trong quá khứ thì không sai và cũng không có gì “cường điệu” so với sự
thật ; nhưng đó chỉ là hình ảnh của “hiện tượng” mà không phải là chi
tiết của “bản chất” trong mối liên hệ “kỳ quặc” của “điệp viên nhị trùng
Phạm Xuân Ẩn” với ông trùm mật vụ Trần Kim Tuyến !!!
Trực thăng Air America (CIA) đã bốc BS Trần Kim Tuyến ra khỏi Saigon vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975
Cả
2 nhân vật Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Ẩn đều đã qua đời từ lâu, nhưng
bác sĩ Trần Kim Tuyến kỳ bí hơn ông Phạm Xuân Ẩn vì bác sĩ Trần Kim
Tuyến không để lại bất cứ chứng từ nào về cuộc tham gia chính trị của cá
nhân ông, cũng như chưa bao giờ có ký giả nào đến “phỏng vấn” hay quay
film về sự nghiệp của ông. Vì vậy tất cả những sự kiện sắp sửa được nêu
ra trong bài viết này đều là những “lý đoán”, cho nên độc giả nào đòi
hỏi người viết phải đưa ra những văn bản hay hình ảnh để minh họa hay
dẫn chứng các sự kiện đã nêu thì người viết xin trả lời chung là
“impossible”.
Thời
Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo VNCH, chức vụ chính thức của bác sĩ
Trần Kim Tuyến được bổ nhiệm là “Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị”, tuy
nhiên không ai biết lương bổng hay nghi vệ của bác sĩ Tuyến như thế nào,
lại càng không biết “trách nhiệm và phận sự” của Sở Nghiên Cứu Chính
Trị mà bác sĩ Trần Kim Tuyến là Giám Đốc. Người ta cũng có thể dịch nhóm
chữ MẬT VỤ sang tiếng Anh là SECRET SERVICE (có nghĩa là dịch vụ bí
mật), tuy nhiên theo thói quen sử dụng của người Mỹ, Secret Service chỉ
giới hạn trong việc “bảo vệ các yếu nhân” của Hoa Kỳ. Trong khi đó, về
phía người Việt, Mật Vụ có nghĩa là Công An, Lính Kín, Cảnh Sát Đặc
Biệt…Trong phạm vi rộng rãi hơn, Mật Vụ cũng có thể là Phản Gián, Tình
Báo Xâm Nhập, An Ninh, Đặc Vụ…theo nhận xét của người viết : Sở Nghiên
Cứu Chính Trị là tiền thân của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo thời Đệ
nhị Cộng Hòa.
Tôi gọi bác sĩ Trần Kim Tuyến là nhân vật “Kỳ Bí ” bậc nhất của VNCH vì những lý do sau đây :
1. Không ai biết rõ lý do nào bác sĩ Tuyến đã rời Sài Gòn từ 1962 để đi làm Tổng Lãnh Sự tại Cairo (Egypt).
2. Sau 1 tháng 11 năm 1963, cũng không ai biết bác sĩ Tuyến trở lại Sài Gòn vào thời điểm nào.
3. Không thấy bác sĩ Tuyến tham chính hay trở lại làm việc trong môi trường An Ninh -Tình Báo của VNCH.
4.
Người ta đồn đoán là bác sĩ Tuyến làm việc “cho” CIA (dễ hiểu là bác sĩ
Tuyến không phải là tỉ phú nên phải cần có phương tiện tài chánh để
hoạt động) .
5.Việt Cộng có thói quen là bôi bác bêu xấu tất cả những “lãnh đạo của VNCH” với những bài viết có văn phong của những tên viết mướn vô học và thiếu giáo dục,
dù những kẻ viết mướn này đã thành danh hay chưa thành danh. Cứ xem
những tài liệu mà bọn đàn em của Lê Duẩn và Lê Đức Anh công khai xuất
bản để bêu riếu và hạ nhục Đại Tướng Võ Nguyên Giáp thì đủ tỏ bọn Việt
Cộng sẽ hạ nhục các cấp lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hòa như thế nào. Tuy
nhiên tôi không thấy bài viết nào đề cập đến bác sĩ Tuyến, không phải
bọn chúng sợ uy lực của ông (VNCH đã sụp đổ thì uy lực bác sĩ Tuyến đâu
có còn hiện hữu) mà là vì chúng không có bất cứ tài liệu về ông – dù là
những tài liệu của Sở Nghiên Cứu Chính Trị hay của báo chí đề cập đến
những thất bại hay thành công của ông !!!
6.
Bác Sĩ Tuyến vẫn ở Sài Gòn hoạt động Tình Báo, đã tiếp xúc một cách
giới hạn với một số ít nhân vật có ảnh hưởng lớn về mặt quân sự và chính
trị, nhưng khi ông rời Sài Gòn vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, phía bên
Việt Cộng bị “chấn động”. Cũng không ai hiểu tại sao bác sĩ Tuyến lại
chọn Anh Quốc (mà không phải là Hoa Kỳ) là nơi cư trú tỵ nạn, và rồi ông
sinh sống ra sao cho đến ngày lìa đời khoảng 1999 - 2000 (nghĩa là gần
25 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975).
Người
viết không có tham vọng viết lịch sử hay bình luận về thân thế và sự
nghiệp của bác sĩ Trần Kim Tuyến, do đó trong tầm giới hạn của trí nhớ,
tôi cố gắng phác họa những dữ kiện rời rạc xuất xứ từ nhiều nguồn gốc
khác nhau để độc giả có thể mường tượng ra được những chiến công của
chiến sĩ điệp báo Trần Kim Tuyến trong công cuộc đấu tranh gìn giữ sự
sống còn của phần đất của người quốc gia trước sự xâm lăng bỉ ổi, trắng
trợn và tàn nhẫn của bọn Việt Cộng (được sự yểm trợ toàn diện của Đế
Quốc Cộng Sản).
Năm
1959, tại Sài Gòn, học giả Hoàng Văn Chí đã xuất bản quyển sách với tựa
đề Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc. Năm 1986, nhà báo Từ Nguyên phỏng vấn
cụ Hoàng Văn Chí (bài phỏng vấn này được in trong tập san Tự Do số 50,
đề ngày 16 tháng 11 năm 1986 và phát hành tại Bỉ - Belgium ), trích đoạn
:…Tôi làm việc một mình.
Tôi liên lạc được với một Ủy Viên trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến. Họ
đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí
xuất bản ở Hà Nội…” – Hết trích.
Thực ra, cụ Hoàng Văn Chí chỉ nói một phần sự thật, toàn vẹn của sự thật như sau :
1/
Mạng lưới thu thập thông tin tình báo của Sở Nghiên Cứu Chính Trị do
bác sĩ Trần Kim Tuyến lãnh đạo đã thu thập tất cả những báo chí xuất bản
ở Hà Nội.
2/
Ủy Viên trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến là Ấn Độ (có một số nhân viên
làm việc cho Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc) – vì vậy họ đi Sài Gòn ra
Hà Nội như đi chợ, nhân viên người Ấn Độ chỉ là người chuyển hàng chứ
không phải là người đi thu thập sách báo in tại Hà Nội (người Ấn Độ
không đọc được tiếng Việt).
3/ Người chuyển các sách báo in tại Hà Nội không giao hàng tại Sài Gòn mà giao hàng tại Rangoon (thủ đô Miến Diện
) khi những người Ấn quá cảnh tại Rangoon trước khi máy bay đáp xuống
New Dehli. Nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị làm việc trong Tòa Đại
Sứ VNCH tại Rangoon mới chuyển hàng từ Rangoon trở lại Sài Gòn. Nói như
cụ Hoàng Văn Chí, hàng giao tại Sài Gòn làm sao tránh được những con mắt
dòm ngó của Việt Cộng nằm vùng?
3 điểm mà tôi vừa nêu trên chứng tỏ bác sĩ Trần Kim Tuyến đã làm việc với Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc từ 1955 : chúng ta nhớ lại rằng đích thân Tổng Thống Eisenhower bổ nhiệm Đại Tá Landsdale cầm đầu phái đoàn Tình Báo của Hoa Kỳ
đi Sài Gòn vào năm 1953 để dọn đường cho một chính quyền được Mỹ “bảo
trợ” nhằm thay thế chính quyền do người Pháp đã và đang “khuynh đảo”
chính quyền miền Nam. Ông Landsdale
không có tiếp xúc với chính giới miền Bắc và không đặt cơ sở hoạt động
của CIA tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Khi Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm lên nắm chính quyền ngày 25 tháng 6 năm 1954 thì giải pháp
chia cắt đất nước đã được bàn tán vì chiến trường Điện Biên Phủ sắp đến
hồi kết thúc với sự thắng lợi nghiêng về phía Việt Cộng. Rồi Hiệp Định
Đình Chiến giữa Pháp và Việt Minh được ký kết tại Genève ngày 20 tháng 7
năm 1954 với 300 ngày giao thời để nhân dân miền Bắc có quyền lựa chọn
“đi vào Nam” hay “ở lại miền Bắc”. Đây
chính là khoảng thời gian mà bác sĩ Trần Kim Tuyến cộng tác với Sở Tình
Báo Hải Ngoại Anh Quốc để thiết lập “mạng lưới tình báo” nhằm dò la tin
tức của Bắc Việt.
Ngay
sau khi liên danh John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson đắc cử, các
chính khách của Hoa Kỳ (bao gồm cả 2 đảng Cộng Hòa và đảng Dân Chủ) đến
Sài Gòn đàm đạo với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, kín đáo đưa đề nghị Hoa Kỳ
đem quân đội trực tiếp chiến đấu tại Việt Nam. Mọi người đều biết là
Tổng Thống Ngô Đình Diệm thẳng thừng bác bỏ lời đề nghị này. Tình Báo
Hải Ngoại của Anh Quốc biết rõ mục tiêu của Hoa Kỳ là dùng quân lực Hoa
Kỳ để tiêu diệt tiềm năng chiến tranh của Bắc Việt và cũng biết rõ là
Tổng Thống Diệm không cho quân đội Hoa kỳ vào Việt Nam cho nên Hoa Kỳ
chắc chắn “đốn bỏ” chướng ngại vật là anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và
Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Vì không có thế lực nào cản trở được ý định của
Hoa Kỳ, nên Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc khuyến cáo bác sĩ
Tuyến nên “lánh mặt” khỏi Việt Nam vì nếu ở lại Sài Gòn, ở vào vị thế
thân cận của ông, chắc chắn bác sĩ Tuyến sẽ bị giết. Đó
là lý do, bác sĩ Trần Kim Tuyến xin đi làm Tổng Lãnh Sự tại Cairo và
rời Sài Gòn từ 1962 (trước ngày 1 tháng 11 năm 1963 cả hơn một năm trời
).
Sau
khi Trung Tướng Nguyễn Khánh mở cuộc “chỉnh lý” vào ngày 31 tháng giêng
năm 1964 để đảo chính Tướng Dương Văn Minh, bác sĩ Trần Kim Tuyến trớ
lại Sài Gòn và làm việc cho Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc. Đành rằng
vì sự quen biết trước, nên bác sĩ Tuyến làm việc cho Cơ Quan Tình Báo
Hải Ngoại của Anh, nhưng bác sĩ Tuyến không làm việc cho CIA vì nguyên
nhân thầm kín sau đây :
A.
Làm việc với CIA thì phải trung thành với CIA, phải tuân thủ những kỷ
luật của chef CIA tại Sài Gòn, trong khi làm việc cho Cơ Quan Tình Báo
Anh Quốc – dĩ nhiên phải “trung thành” , nhưng bác sĩ Tuyến được toàn
quyền hành động – không chịu sự điều động cai quản của chef nào cả (vì
Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc chỉ lấy tin tức chứ không nhúng
tay vào các hoạt động chính trị của chính quyền Sài Gòn).
B.
Bác sĩ Trần Kim Tuyến muốn bảo vệ mạng lưới thâu nhận tin tức của riêng
ông đã gầy dựng từ 1955 ở ngoài Bắc. Họ là những chiến sĩ chống Cộng
thật sự, nên họ trung thành với cá nhân của ông. Nếu bác sĩ Tuyến làm
việc cho CIA, mạng sống của các chiến sĩ tình báo này (kể cả thân nhân
trong gia đình ) có thể bị lâm nguy vì CIA có thể “bán” họ hầu đánh đổi lấy tù binh Mỹ đang bị giam tại Hỏa Lò Hà Nội !!!
Tôi
đoan chắc bác sĩ Trần Kim Tuyến không làm việc cho CIA vì nếu là nhân
viên của CIA, ông và gia đình đã có tên trong “danh sách di tản”. Ngày 29 tháng 4 năm 1975, điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn phải đưa bác sĩ Tuyến lên phi cơ trực thăng của “các nhà báo Mỹ” !!!
Theo
như ông Phạm Xuân Ẩn kể lại : sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, bác sĩ
Tuyến được một Thiếu Tá - mà bác sĩ Tuyến giới thiệu là người cháu – chở
tới Văn Phòng của ông, nhờ ông đưa vào Tòa Lãnh Sự Mỹ để di tản…Tôi
nhận thấy có những điểm “bất bình thường” như sau :
1. Bác sĩ Trần Kim Tuyến đến văn phòng ông Phạm Xuân Ẩn chỉ có một mình, có nghĩa là “vợ con và gia đình đã di tản trước “ rồi.
2.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 là hạn chót cho người Mỹ di tản. Trong khi đó
sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, hải quân VNCH vẫn còn trên sông Sài Gòn
và bến Bạch Đằng, Dẫn chứng, qua cuộc điện đàm giữa Phó Đô Đốc Chung Tấn
Cang và Tổng Thống Dương Văn Minh, tướng Cang hỏi Tổng Thống DVM có rời
Sài Gòn hay không để ông chờ đón tại bến Bạch Đằng. Tổng Thống DVM nói
ông không thể bỏ Sài Gòn được, nhưng xin cho gia đình của con gái và
người con rể là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài đi theo HQVN rời Sài Gòn. (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài hiện ở Pasadena –Nam Cali). Tướng Cang nghe lời đầu hàng của Tổng Thống DVM trên hệ thống phát thanh, ông chỉ thốt ra được 3 chữ THẰNG KHỐN NẠN !!!
Bác
sĩ Trần Kim Tuyến có thừa sức di tản bằng các phương tiện khác, nhưng
ông đến gặp ông Phạm Xuân Ẩn để “nhờ vả” chỉ để test lại bài toán. Đó là
nếu ông Phạm Xuân Ẩn trở mặt và không chịu giúp bác sĩ Tuyến rời khỏi
Sài Gòn thì “đao phủ thủ” (là viên Thiếu Tá – mà bác sĩ Tuyến giới thiệu
là cháu) sẽ hạ sát “điệp viên nhị trùng” ngay lập tức, rồi sau đó 2
người sẽ xuống tàu rời Sài Gòn ngay. Tuy nhiên, ông Phạm Xuân Ẩn dù đứng
khác chiến tuyến, nhưng thông cảm cho “người bạn” đang lâm vào thế kẹt
nên ông tận tình giúp. Cũng nhờ vậy, tôi đoan chắc rằng chính lòng trắc
ẩn có tình người của ông Phạm Xuân Ẩn đã giúp ông sống còn, nếu không
ngày 29 tháng 4 lại là ngày giỗ hàng năm của ông rồi còn đâu!!!
Tôi
cũng đoan chắc là khi ông Ẩn lái xe đưa bác sĩ Tuyến đến địa chỉ số 39
đường Gia Long, “đao phủ thủ” vẫn lái xe gắn máy bám sát theo xe của ông
Ẩn và chờ đến khi bác sĩ Tuyến lên được chiếc trực thăng, viên Thiếu Tá
này mới trở về nhà của mình. Hiện nay chưa một ai xác nhận được lai
lịch của vị Thiếu Tá đã chở bác sĩ Tuyến đến văn phòng của ông Ấn.
3.
Trước ngày Tổng Thống Thiệu chịu trao quyền cho Tổng Thống Trần Văn
Hương, bác sĩ Tuyến đã mưu toan lật đổ Tổng Thống Thiệu, vậy lý do nào
ngày 29 tháng 4 năm 1975, bác sĩ Tuyến mới chịu rời Sài Gòn ?. Theo ý
kiến của riêng tôi, bác sĩ Tuyến là vị chỉ huy có tinh thần trách nhiệm
với thuộc cấp : ông đã dùng uy tín của ông để đưa các nhân viên và gia
đình của họ rời khỏi Sài Gòn bằng nhiều phương cách khác nhau. Đồng thời ông cũng xóa các “dấu vết” trong mạng lưới tình báo của ông
để Việt Cộng khi kiểm soát toàn thể Sài Gòn không thể mò tìm gây phiền
toái và nguy hiểm cho những người vì nhiều lý do không thể rời khỏi Sài
Gòn được.
Bên
ngành Cảnh Sát Đặc Biệt cũng có trường hợp tương tự : Trung Tá Nguyễn
Hữu Hải- nguyên Phụ tá Đặc Biệt của Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia
Quân Khu 2, khi di tản về tới Sài Gòn thì các tướng Huỳnh Thới Tây,
tướng Nguyễn Văn Giàu… đã rời Việt Nam. Nhận thấy Văn Khố của Cảnh Sát
Đặc Biệt vẫn còn nguyên, Trung Tá Hải đã
ra lệnh tiêu hủy và ông là sĩ quan cao cấp nhất của ngành Cảnh Sát Đặc
Biệt đã bàn giao cho Việt Cộng tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia trên
đường Võ Tánh tại Sài Gòn (Ghi nhớ : Biện Lý Triệu Quốc Mạnh – kẻ
nằm vùng của Việt Cộng – được Tổng Thống DVM bổ nhiệm làm Giám Đốc Nha
Cảnh Sát Đô Thành, nằm trên đường Trần Hưng Đạo chớ không phải được bổ
nhiệm làm Tư Lệnh Cảnh Sát nên Triệu Quốc Mạnh không biết gì về Văn Khố
của Cảnh Sát Đặc Biệt). Trung Tá Nguyễn Hữu Hải bị Việt Cộng trả thù
bằng cách giam giữ ông tới 17 năm, ông ra tù sau tướng Lê Minh Đảo và
đưa thẳng sang Hoa Kỳ vào năm 1993 (tội của ông không được ghi trên văn
bản nhưng Việt Cộng giam giữ lâu vì ông ra lệnh phá hủy các văn kiện tối
mật mà chúng muốn biết).
4.
Sau khi bốc Trung Tướng Trần Văn Đôn và bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi
Sài Gòn, chắc chắn chiếc trực thăng chỉ đủ xăng bay ra Hạm Đội 7, đổi
phi cơ trên Hàng Không Mẫu Hạm nhưng tôi không rõ phi cơ chở 2 vị bay
sang Thái Lan hay bay vào căn cứ Clark trên đất Philippines, chỉ biết
rằng Trung Tướng Trần Văn Đôn thì đến Pháp định cư, còn bác sĩ Tuyến thì
đến Anh định cư. Có lẽ Cơ Quan Tình Báo Hải Ngoại của Anh Quốc trả tiền
“về hưu” cho bác sĩ Tuyến nên ông dùng số tiền này mua một motel nhỏ để
dưỡng già : bác sĩ Tuyến vừa làm manager, vừa làm bồi phòng, vừa làm
janitor, vừa đun nước sôi pha trà… cho khách, giống như một cao thủ võ
lâm “rửa tay gói kiếm” trong các tiểu thuyết kiếm hiệp của Trung Hoa.
5.
Tôn Tử khi viết quyển BINH PHÁP cách nay hơn 2,500 năm , trong chương
“Dụng Gián”, ông có phân loại nhiều loại gián điệp mà Tử Gián có nghĩa
là Gián Điệp chỉ được dùng có 01 lần duy nhất. Tôi gọi bác sĩ Trần Kim
Tuyến là Ông Trùm Hoàn Hảo (như tiêu đề bài viết này) vì sau khi giúp
bác sĩ Tuyến rời khỏi Sài Gòn, điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn đã bị
bọn lãnh đạo của Việt Cộng nghi ngờ lòng trung thành, chúng vinh thăng
cho ông Ẩn từ Đại tá lên Thiếu Tướng Tình Báo nhưng cô lập và không cho
tiếp xúc với bất kỳ ai khiến ông bất mãn. Theo như tiết lộ của bà Irina
trong tập Bút Ký Irina xuất bản hồi 1992 tại Hoa Kỳ,trước khi Liên Sô
sụp đổ, bà Irina sang Việt Nam phỏng vấn ông Ẩn (vì bà là Trưởng Ban Việt Ngữ của đài phát thanh Moscow), ông chua chát nói : “ông chỉ có làm tình và làm báo, chớ ông không có làm tình báo” !!!
Bác
sĩ Trần Kim Tuyến đã đẩy điệp viên nhị trùng Phạm Xuân Ẩn trở thành Tử
Gián nghĩa là vô hiệu hóa khả năng làm tình báo của ông Ấn sau năm 1975.
Bác sĩ Trần Kim Tuyến lìa đời trước ông Phạm Xuân Ẩn chừng non 10 năm,
nhưng bác sĩ Tuyến ra đi với tấm lòng thanh thản. Trong khi đó, ông Phạm
Xuân Ẩn lìa đời với tấm lòng buồn bực ấm ức, chả thế mà trong di chúc,
ông dặn lại con cháu : “sau khi ông chết, xin đừng chôn chung với những người Cộng Sản …”
Đọc
Tam Quốc Chí, đoạn nói về Khổng Minh bị Tư Mã Ý bao vây mà trong thành
chỉ còn vài trăm quân lính, Khổng Minh liền cho mở cửa thành, ngồi ở
cuối đường ngó thẳng vào thành, cầm quạt phe phẩy, vậy mà Tư Mã Ý không
dám tiến quân, rồi sau đó cho lui binh. Mao Tôn Cương bàn rằng : …Kế của
Khổng Minh thành công vì Khổng Minh biết Tư Mã Ý là người suy tính cẩn
thận. Mưu kế ấy sẽ trở nên thất bại nếu người vây thành là Trương Phi
hay Hứa Chữ thì không xong vì 2 ông tướng nóng nẩy này cho dù biết có cả
vạn binh phục kích đi nữa cũng không care !
Tương
tự như vậy, chính vì quá hiểu biết tâm tư + tính tình của bọn lãnh tụ
Việt Cộng nên bác sĩ Tuyến mới triệt hạ được khả năng làm “điệp viên hai
mang” của ông Phạm Xuân Ẩn.
Xin gửi cả sự TÂM PHỤC lẫn KHẨU PHỤC đến bác sĩ Trần Kim Tuyến về tài năng và trí tuệ tuyệt vời của ông.
Với
việc Phong trào Hamas ở Palestine tiến hành cuộc tấn công chưa từng có
nhằm vào Israel và cuộc tấn công trả đũa của nước này, cộng đồng quốc tế
một lần nữa tập trung sự chú ý tới chảo lửa Trung Đông và những gì có
thể xảy ra tiếp theo. Dưới đây là hướng dẫn đơn giản để độc giả có thể
nắm bắt được những sự kiện và diễn biến chính của một trong những cuộc
xung đột dai dẳng nhất lịch sử hiện đại.
Vùng đất Palestine lịch sử
Palestine
là một khu vực địa lý tại Tây Á, nằm giữa Địa Trung Hải và sông Jordan,
ở vào một vị trí chiến lược, là giao lộ giữa Ai Cập, Đại Syria và bán
đảo Ảrập.
Từ thế
kỷ thứ 11 TCN, nhà nước cổ đại của người Do Thái đã ra đời ở vùng đất
Palestine. Các vị vua Do Thái nổi tiếng trong thời kỳ này có thể kể đến
như vua David (người đã đánh bại gã khổng lồ Goliah) hay Solomon (người
cho xây dựng đền thờ Do Thái thứ nhất).
Ngày
nay người ta biết về thời kỳ này rất ít, chủ yếu qua kinh Cựu ước.
Nhưng nó cũng chứng minh một điều quan trọng: Sự hiện diện của người Do
Thái trên mảnh đất này đã có từ rất lâu, trước khi những người Ảrập
chiếm được nó. Sau khi vua Solomon qua đời, nhà nước Do Thái suy yếu,
xảy ra nội chiến và bị chia cắt, trước khi bị thôn tính bởi người
Babylon và người Assyria.
Đến
thế kỷ thứ 8 TCN, các quốc gia của người Do Thái đã bị tiêu diệt hoàn
toàn, vùng đất Palestine lần lượt nằm dưới sự cai trị của các Đế chế
Assyria, Đế chế Babylon, Đế chế Ba Tư, Đế chế La Mã trong hàng thế kỷ
sau đó. Người Hồi giáo Ảrập trong quá trình bành trướng của họ đã chiếm
được khu vực này vào thế kỷ thứ 8 từ tay người La Mã. Trải qua nhiều
thăng trầm, Palestine tiếp tục bị kiểm soát bởi người Hồi giáo trong
hàng thế kỷ với sự cai trị lần lượt của các đế chế Hồi giáo Ayyubid, Đế
chế Mamluk và đế chế Ottoman.
Khởi nguồn của xung đột
Cuối
thế kỷ 19, người Do Thái sau hai thiên niên kỷ phiêu bạt đã cho ra đời
Phong trào Phục quốc Do Thái với mục tiêu thành lập một quốc gia có chủ
quyền cho dân tộc của họ ở khu vực Trung Đông. Trong khi đó, phong trào
chủ nghĩa dân tộc Ảrập cũng được hình thành để tìm cách giành độc lập từ
Đế chế Ottoman. Với sự gia tăng của chủ nghĩa bài Do Thái ở Châu Âu,
một làn sóng di cư của người Do Thái tới Palestine đã diễn ra từ đầu
những năm 1880. Người Ảrập ở Palestine hiển nhiên không hài lòng trước
làn sóng này, mâu thuẫn giữa hai bên đã bắt đầu âm ỉ từ đây.
Đế
chế Ottoman tham chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, đứng về
phía phe Liên minh (cùng Đức, Áo-Hung) để chống lại phe Đồng minh (Anh,
Pháp, Nga). Kết cục: phe Liên minh thất bại, còn đế chế Ottoman tan rã
thành nhiều quốc gia độc lập.
Sau
chiến tranh thế giới, lãnh thổ Palestine (khi đó bao gồm tất cả những
vùng hiện có của Israel và Jordan) được đặt dưới chế độ “ủy trị” của Anh
tức được Hội Quốc Liên ủy nhiệm để kiểm soát trong một khoảng thời gian
nhất định cho đến khi họ trao trả vùng đất này cho "chủ nhân" thực sự.
Nhưng "chủ nhân" đó là ai? Người Ảrập hay người Do Thái?
Tuyên bố Balfour năm 1917
Tuyên bố Balfour năm 1917. Ảnh: History.com
Vào
ngày 2.11.1917, Ngoại trưởng Anh lúc bấy giờ là Arthur Balfour đã viết
một lá thư gửi tới Lionel Walter Rothschild, một người đứng đầu cộng
đồng người Do Thái ở Anh.
Bức
thư rất ngắn - vỏn vẹn 67 từ - nhưng nội dung của nó đã gây ra một cơn
địa chấn đối với Palestine mà tác động của nó, chắc chắn vẫn còn được
cảm nhận cho đến ngày nay.
Bức
thư cam kết chính phủ Anh sẽ “thành lập ở Palestine một quốc gia cho
dân tộc Do Thái” và tạo điều kiện thuận lợi để “thực hiện mục tiêu này”.
Bức thư được gọi là Tuyên bố Balfour.
Về
bản chất, Tuyên bố Balfour là việc một cường quốc châu Âu hứa với Phong
trào Phục quốc Do Thái sẽ giúp họ thành lập một “quốc gia” ở nơi người
bản địa Ảrập Palestine chiếm hơn 90% dân số.
Các
quốc gia Ảrập cho rằng vì vùng đất này do người Hồi giáo cai trị hơn
một thiên niên kỷ và dân số đa số là người Ảrập nên Palestine phải là
một phần của một quốc gia Ảrập, có thể là Syria.
Nhưng
Chính phủ Anh thì cho rằng vương quốc Do Thái đã trị vì ở nhiều khu vực
Palestine trong hơn 1.000 năm và rằng người Ảrập đã có một số quốc gia
với diện tích hàng triệu km vuông trong khi người Do Thái lại không có
nhà nước của mình.
Chế
độ ủy trị của Anh được thành lập vào năm 1923 và tồn tại cho đến năm
1948. Trong thời gian đó, người Anh đã tạo điều kiện cho người Do Thái
nhập cư hàng loạt vào Palestine, dẫn đến những căng thẳng giữa hai cộng
đồng.
Cuộc nổi dậy Ảrập những năm 1930
Căng thẳng leo thang cuối cùng đã dẫn đến cuộc nổi dậy Ảrập, kéo dài từ năm 1936 đến năm 1939.
Vào
tháng 4.1936, Ủy ban Quốc gia Ảrập mới thành lập đã kêu gọi người
Palestine phát động một cuộc tổng đình công, giữ lại các khoản thuế và
tẩy chay các sản phẩm của người Do Thái để phản đối chủ nghĩa thực dân
Anh và sự gia tăng nhập cư của người Do Thái.
Cuộc
đình công kéo dài 6 tháng đã bị người Anh đàn áp dã man, họ đã phát
động chiến dịch bắt giữ hàng loạt và tiến hành phá hủy nhà cửa để trừng
phạt.
Đến nửa cuối
năm 1939, Anh đã tập trung 30.000 quân ở Palestine. Các ngôi làng bị
ném bom bằng máy bay, lệnh giới nghiêm được áp đặt, nhà cửa bị phá hủy,
các vụ giam giữ hành chính diễn ra phổ biến.
Trong ba năm nổi dậy đó, 5.000 người Palestine đã thiệt mạng, 15.000 đến 20.000 người bị thương và 5.600 người bị cầm tù.
Kế hoạch phân chia của Liên Hợp Quốc năm 1947
Kế hoạch Phân chia Palestine của LHQ năm 1947. Ảnh: Al Jazeera
Giai
đoạn "ủy trị" của Anh tại Palestine kéo dài từ năm 1923, cuối cùng đã
buộc phải chấm dứt vào năm 1947 sau khi Đại hội đồng LHQ thông qua Nghị
quyết 181, thực hiện kế hoạch phân chia vùng đất Palestine thành một nhà
nước của người Ảrập và một nhà nước của người Do Thái, trong khi thành
phố thánh Jerusalem được đặt dưới sự quản lý quốc tế. Kế hoạch đã châm
ngòi cho cuộc xung đột dai dẳng mà chúng ta biết ngày nay.
Hầu
hết người Do Thái ở Palestine và khắp nơi trên thế giới hài lòng và
chấp nhận kế hoạch phân chia của LHQ, cả hai siêu cường là Hoa Kỳ và
Liên Xô cũng nhất trí với kế hoạch này.
Tuy
nhiên, người Palestine và cộng đồng Ảrập không chấp nhận vì kế hoạch
của LHQ giao khoảng 56% diện tích Palestine cho nhà nước Do Thái, bao
gồm phần lớn khu vực ven biển màu mỡ. Vào thời điểm đó, người Palestine
đang sở hữu 94% diện tích Palestine lịch sử và chiếm 67% dân số.
Chiến tranh Ảrập-Israel 1948
Lãnh thổ Israel và Palestine qua các thời kỳ. Ảnh: Al Jazeera
Tuân
thủ theo nghị quyết của LHQ, người Do Thái đã chính thức tuyên bố thành
lập nhà nước Israel vào ngày 14.5.1948. Chỉ vài giờ sau tuyên bố độc
lập, Liên Xô là quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận nhà nước
Israel, và Hoa Kỳ cũng nhanh chóng làm theo.
Các
nước Ảrập (gồm Ai Cập, Iraq, Jordan, Syria, Ảrập Xêút, Lebanon và Bắc
Yemen) quyết tâm đè bẹp quốc gia Israel mới chào đời, do đó họ đã đem
quân xâm lược Israel, dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh Ảrập-Israel
1948.
Kết thúc:
Israel giành chiến thắng, giữ được toàn bộ vùng lãnh thổ mà LHQ chia cho
họ, và chiếm thêm được 60% vùng lãnh thổ được trao cho người Ảrập tại
Palestine theo kế hoạch phân chia. 40% còn lại được các nước Ảrập tham
chiến chia nhau: Jordan sáp nhập Bờ Tây, Ai Cập chiếm lấy Dải Gaza.
Còn
đối với với Jerusalem, theo kế hoạch phân chia của LHQ thì sẽ được quốc
tế quản lý, tuy nhiên sau khi cuộc chiến kết thúc thì kế hoạch đã không
bao giờ được thực hiện. Israel đã sáp nhập vùng phía tây của thành phố
và tuyên bố đây là thủ đô của đất nước, còn Jordan chiếm lấy phần phía
đông.
Cuộc chiến
tranh này đã gây ra khoảng 15.000 thương vong. 750.000 người Palestine
phải chạy trốn, dẫn đến làn sóng di cư khổng lồ của người Ảrập tại
Palestine sang các quốc gia láng giềng.
Cuộc chiến Sáu ngày năm 1967
Năm
1967, các nước Ảrập lên kế hoạch tấn công Israel lần thứ hai, với mục
đích tự vệ Israel đã mở một chiến dịch tấn công phủ đầu vào cả ba nước
Ảrập là Syria, Jordan và Ai Cập, dẫn đến sự bùng nổ của cuộc Chiến tranh
Sáu ngày.
Kết
thúc cuộc chiến là một thắng lợi vang dội cho Israel, họ đã chiếm được
Bờ Tây (bao gồm cả Đông Jerusalem) từ tay Jordan; Dải Gaza và bán đảo
Sinai từ tay Ai Cập, cùng với cao nguyên Golan từ tay Syria.
Cuộc chiến Yom Kippur năm 1973 và Hiệp định Camp David
Năm
1973, các lực lượng quân sự của Ai Cập và Syria bất ngờ tấn công Israel
vào ngày lễ Yom Kippur của người Do Thái, với mục tiêu tái chiếm các
vùng lãnh thổ bị mất trong Chiến tranh Sáu ngày. Tuy vậy cuộc xâm lược
này tiếp tục thất bại trước sự phản kháng mạnh mẽ của Israel.
Đối
với Israel, tuy phản công thắng lợi vào giai đoạn sau, nhưng tổn thất
nặng về vũ khí và nhân lực khiến nước này thấy cần đàm phán hòa bình với
khối Ảrập.
Theo
Hòa bình David Camp năm 1978 do Mỹ làm trung gian, Israel đã trả lại Bán
đảo Sinai cho Ai Cập. Đổi lại Ai Cập chính thức công nhận nhà nước
Israel và rút khỏi liên minh chống Israel.
Chiến tranh Nam Lebanon và Hiệp định Oslo 1993
Vào
năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được thành lập bởi Yasser
Arafat, hoạt động chủ yếu ở Ai Cập. Mục tiêu ban đầu của tổ chức này là
tiêu diệt Nhà nước Israel thông qua đấu tranh.
Sau
cuộc chiến Sáu ngày, PLO buộc phải tháo chạy sang Jordan và sau đó di
dời đến Nam Lebanon, nơi đây đã được PLO sử dụng làm căn cứ để tiến hành
các cuộc tấn công vào miền Bắc Israel cũng như các chiến dịch không tặc
trên toàn thế giới.
Sau
vụ PLO ám sát hụt một nhà ngoại giao Israel năm 1982, Israel đã đáp trả
bằng việc mở một cuộc tấn công toàn diện vào Lebanon, nơi trú ẩn của
PLO. Các nhóm vũ trang của Palestine bị đánh bại nhanh chóng trong vòng
vài tuần, và trụ sở của PLO đã được sơ tán đến Tunisia vào tháng 6 theo
quyết định của Yasser Arafat.
Đến đầu những năm 1990, các nỗ lực quốc tế để giải quyết cuộc xung đột đã bắt đầu.
Hiệp
định Oslo năm 1993 được coi là bước tiến lớn trong tiến trình hòa bình.
Theo điều khoản của hiệp định, PLO thừa nhận sự tồn tại của Nhà nước
Israel và cam kết từ bỏ đấu tranh bạo lực. Đổi lại, Israel cũng công
nhận PLO là đại diện của người dân Palestine. Ngoài ra, PLO cũng được
phép di dời khỏi Tunisia và thành lập Chính quyền Quốc gia Palestine ở
Bờ Tây và Dải Gaza.
Hiệp
định này được coi là một bước ngoặt: lần đầu tiên PLO chấp nhận giải
pháp hai nhà nước, tức họ không còn đòi hỏi chủ quyền đối với toàn bộ
vùng đất Palestine nữa.
Tuy
vậy, hiệp định đã vấp phải sự phản đối đáng kể từ các nhóm Hồi giáo cực
đoan của Palestine, tiêu biểu là Phong trào Hamas. Họ lên án Arafat là
"thỏa hiệp với kẻ thù" và ngay lập tức khởi xướng một chiến dịch khủng
bố nhằm vào người Israel. Hòa bình lại một lần nữa không thể thành hiện
thực.
Sự chia rẽ nội bộ Palestine và cuộc phong tỏa Gaza
Lãnh
đạo PLO Yasser Arafat qua đời năm 2004, và một năm sau, phong trào
Intifada lần thứ hai kết thúc, các khu định cư của Israel ở Dải Gaza bị
dỡ bỏ, binh lính Israel cùng 9.000 người định cư rời khỏi vùng đất này.
Một
năm sau, người Palestine lần đầu tiên đi bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển
cử. Hamas giành được đa số phiếu. Tuy nhiên, một cuộc nội chiến
Fatah-Hamas đã nổ ra, kéo dài nhiều tháng, dẫn đến cái chết của hàng
trăm người Palestine.
Hamas
trục xuất Fatah khỏi Dải Gaza, và Fatah - đảng chính của Chính quyền
Palestine - nối lại quyền kiểm soát các khu vực ở Bờ Tây.
Vào năm 2007, Israel áp đặt lệnh phong tỏa trên bộ, trên không và trên biển đối với Dải Gaza, cáo buộc Hamas là "khủng bố".
4 cuộc chiến ở Dải Gaza
Tính
đến trước cuộc chiến hiện tại, Israel đã tiến hành 4 cuộc tấn công quân
sự kéo dài vào Gaza: vào các năm 2008, 2012, 2014 và 2021. Hàng nghìn
người Palestine đã thiệt mạng và hàng chục nghìn ngôi nhà, trường học và
tòa nhà văn phòng đã bị phá hủy.
Năm
2012, LHQ thông qua nghị quyết, nâng cấp Chính quyền Nhà nước Palestine
lên vị thế "nhà nước quan sát viên phi thành viên". Việc thay đổi vị
thế này được mô tả là công nhận thực tế chủ quyền quốc gia của người
Ảrập Palestine.
Tiến
trình hòa bình hiện nay vẫn đang đối mặt với rất nhiều trở ngại bởi các
bên không ủng hộ giải pháp hai nhà nước, đặc biệt là từ các từ Phong
trào cực đoan Hamas của Palestine. Những gì vừa diễn ra những ngày qua
cho thấy cuộc xung đột dai dẳng kéo dài gần một thập kỷ này có lẽ còn
lâu mới tới hồi kết thúc.
Được Tổng thống Truman thành lập năm 1947, động cơ chính của CIA
là làm trung gian phân tích và tình báo chính sách đối ngoại trên toàn
quốc. Ngày nay, nó là cơ quan quyền lực nhất trong Cộng đồng Tình báo
Mỹ. Hầu hết các nguồn lực và nhân lực của tổ chức này được dành cho việc
thu thập thông tin tình báo nước ngoài với một lượng dữ liệu trong nước
tối thiểu.
CIA
cũng là một trong những tổ chức chính phủ được tài trợ rất nhiều ở Mỹ.
Trong lịch sử, CIA đã tham gia nhiều cuộc sự kiện quốc tế, bao gồm cả
cuộc đảo chính Guatemala năm 1954, các sự kiện chính trị ở Syria,
Indonesia và Congo.
VOV.VN - Thập niên 1980, gián điệp Tolkachev người Liên Xô đã
cung cấp cho tình báo Mỹ (CIA) rất nhiều thông tin mật quý giá về công
nghệ quân sự.
2. Cơ quan Tình báo mật - Anh
Thành lập: 1909
Ngân sách năm: 2,69 tỷ USD (2015)
Trụ sở MI6; Nguồn: Confidential-Spy-Files-Leaked
Còn được gọi là MI6, Cơ quan Tình báo Anh (SIS) là một trong những tổ
chức được nể trọng nhất trong thế giới tình báo. Sự tồn tại của SIS chỉ
được chính thức thừa nhận vào năm 1994, gần 9 thập kỷ sau khi thành
lập. Không giống như MI5, lãnh địa của SIS chỉ giới hạn đối với các đối
tượng và thực thể bên ngoài quần đảo Anh. Trong lịch sử, cơ quan này
tham gia Thế chiến II, Chiến tranh Lạnh và các tranh chấp khu vực khác
trên toàn thế giới.
3. Mossad - Israel
Thành lập: 1949 Ngân sách năm: 2,7tỷ USDMossad là một trong những cơ quan tình báo đối ngoại lâu đời nhất, có
năng lực nhất và đánạt động chống khủng bố và hoạt động
bí mật ở nước ngoài. Năm 2017, Mossad đã thành lập quỹ đổi mới công nghệ
Libratad để ầu tư vào các công ty công nghệ khởi nghiệp. Cơ quan này
có các đơn vị chống khủng bố là Kidon và Metsada cho các nhiệm vụ rất
nhạy cảm - ám sát và phá hoại cấp cao trên toàn cầu.
Hầu hết các hoạt động bí mật do Mossad thực hiện đều vì lợi ích của
cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới. Sau Vụ thảm sát Munich năm 1972,
cơ quan này đã thực hiện một hoạt động bí mật lớn (“Sự phẫn nộ của
Chúa”) để theo dõi và loại bỏ các thành viên của nhóm chiến binh vũ
trang Palestine có liên quan đến vụ tấn công. Chiến dịch bao trùm từ
Italy, Pháp, Hy Lạp và Na Uy đến Lebanon, Algeria và Libya.
VOV.VN - Từ khi ra đời, Israel đã nằm trong vòng vây của nhiều
nước muốn bóp chết quốc gia này. Để trụ được, họ phải trông cậy vào cả
IDF lẫn tình báo Mossad.
4. GCHQ - Anh và NSA - Mỹ
Thành lập: 1919 (GCHQ); 1952 (NSA)
Trụ sở Truyền thông Chính phủ (Government Communications Headquarters
– GCHQ) là một tổ chức an ninh chịu trách nhiệm thu thập thông tin tình
báo cho chính phủ Anh và các lực lượng vũ trang của họ. GCHQ có hai
thành phần: Trung tâm An ninh Mạng Quốc gia (NCSC) và Tổ chức Tín hiệu
Tổng hợp (GCHQ Bude). NCSC đánh giá mối đe dọa và cung cấp lời khuyên
liên quan đến an ninh mạng cho các tổ chức tư nhân và chính phủ ở Anh.
Còn GCHQ Bude thực hiện các hoạt động thu thập thông tin tình báo rộng
hơn nhiều, chẳng hạn như đánh chặn dữ liệu vệ tinh và cáp.
Đối tác của GCHQ là Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) Mỹ, là một trong
những cơ quan tình báo được công khai nhiều nhất trên thế giới. NSA chịu
trách nhiệm thu thập và phân tích thông tin liên quan đến an ninh từ cả
trong và ngoài nước để hỗ trợ các cơ quan an ninh liên bang khác của
Mỹ. NSA tham gia vào việc giám sát hàng loạt thông qua các chương trình
hack và nghe lén bí mật. Về ngân sách, NSA là tổ chức tình báo lớn thứ
hai ở Mỹ sau CIA. Cả GCHQ và NSA đều là những cơ quan tình báo thu thập
thông tin liên quan đến bảo mật hàng đầu trên thế giới, thường cộng tác
trong các dự án khác nhau.
5. Cơ quan tình báo đối ngoại (SVR) - Nga
Thành lập: 1991
Cơ quan Tình báo Liên bang Nga (SVR) kế nhiệm vai trò cơ quan tình báo đối ngoại sau khi Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô
(KGB) bị giải tán năm 1991. Nhiệm vụ của cơ quan này bao gồm thu thập
thông tin tình báo, thực hiện các hoạt động gián điệp chiến lược và kinh
tế cũng như bảo vệ các quan chức Nga ở nước ngoài.
Sau khi hình thành, SVR đóng một vai trò ảnh hưởng hơn trong các
chính sách đối ngoại của Nga. Được biết, đây là cơ quan có thẩm quyền
quyết định trong việc chuyển giao công nghệ hạt nhân của Nga cho Iran.
SVR thường làm việc cùng với đơn vị tình báo quân sự nước ngoài của Nga,
GRU, để thực hiện các hoạt động gián điệp và bí mật tại nhiều nước.
VOV.VN - Sau khi Liên Xô tan rã, cơ quan an ninh mới của Nga
(FSB) tiếp tục sử dụng trụ sở cũ của cơ quan tình báo KGB nổi tiếng.
6. Bộ An ninh Quốc gia - Trung Quốc
Thành lập: 1983
Ngân sách năm: 8 tỷ USD (2018)
Bộ An ninh Quốc gia (MSS) là cơ quan dân sự phụ trách thu thập thông tin tình báo trong và ngoài nước và phản gián của Trung Quốc.
Cơ cấu MSS hiện tại có từ năm 1983 sau khi hợp nhất Cục Điều tra Trung
ương (cơ quan tình báo đối ngoại) và Cục phản gián của Bộ Công an. Với
sự hiện diện đáng kể ở khắp năm châu lục, MSS được coi là một trong
những cơ quan tình báo mạnh và có ảnh hưởng trên thế giới.
VOV.VN - So với CIA (Mỹ), cơ quan tình báo đối ngoại Trung
Quốc ít được công chúng biết đến hơn. Họ có những phương thức khiến phản
gián Mỹ khó xử lý.
7. Cơ quan Tình báo Liên bang (BND) - Đức
Thành lập: 1956
Ngân sách năm: 2,1 tỷ USD (năm 2021)
Cơ quan tình báo Đức (Bundesnachrichtendienst - BND) được thành lập
năm 1956 với sự giúp đỡ của CIA và đóng vai trò là cửa ngõ duy nhất để
các cơ quan gián điệp phương Tây giám sát chặt chẽ khối phía Đông. Trong
suốt những năm 1960-1970, BND được coi là cơ quan tình báo có thông tin
tốt nhất về Tây Á (Trung Đông). Ngày nay, cơ quan này chịu trách nhiệm
thu thập và phân tích thông tin liên quan đến khủng bố quốc tế, chống
phổ biến vũ khí hạt nhân cũng như buôn bán ma túy và tội phạm có tổ
chức.
Giống như CIA, cơ quan này tham gia vào việc giám sát hàng loạt. Một
sĩ quan BND đã đàm phán thành công việc trao đổi tù nhân giữa Israel và
nhóm phiến quân Hồi giáo Shia Hezbollah, diễn ra năm 2018. Được khánh
thành vào năm 2019, trụ sở BND ở Berlin trải dài trên diện tích tương
đương với 36 sân bóng đá, là trụ sở tình báo lớn nhất thế giới và có thể
chứa được khoảng 6.500 nhân viên.
VOV.VN - Một trong các cơ quan “đặc biệt” của Đức là BND - cơ
quan tình báo chuyên về mảng đối ngoại. Cơ quan này hiện có một trụ sở
mới vô cùng bề thế.
8. Tổng cục An ninh đối ngoại (DGSE) - Pháp
Thành lập: 1982
Ngân sách năm: 731 triệu USD
Tổng cục An ninh Đối ngoại (viết tắt trong tiếng Pháp là DGSE), là
một trong những cơ quan tình báo có ảnh hưởng nhất trên thế giới. DGSE
trực thuộc Bộ Lực lượng Vũ trang Pháp và có nhiệm vụ thu thập thông tin
tình báo và phản gián, cũng như tiến hành các hoạt động đặc biệt ở nước
ngoài.
Phù điêu của DGSE; Nguồn: wikipedia.org
DGSE cũng chuyên về gián điệp kinh tế - thu thập kiến thức về sở
hữu trí tuệ (sản phẩm công nghiệp, kỹ thuật, ý tưởng) hoặc thông tin
hoạt động (R&D, chiến lược) chống lại các quốc gia khác. Trong suốt
những năm 1970 và 1980, DGSE đã theo dõi một số công ty công nghệ lớn
nhất ở Mỹ. Trong những năm qua, cơ quan này đã tham gia vào nhiều cuộc
nội chiến, đảo chính, chống khủng bố và hoạt động cứu hộ trên khắp thế
giới.
9. Tình báo liên ngành - Pakistan
Thành lập: 1948
Tình báo liên ngành (ISI), là cơ quan tình báo đối ngoại của
Pakistan. Các nhân viên ISI chỉ được tuyển dụng từ ba quân chủng của Lực
lượng vũ trang Pakistan. ISI nổi tiếng với các chiến thuật gây hấn bao
gồm chiến tranh tâm lý và lật đổ.
ISI là một trong số ít các cơ quan tình báo trên thế giới có sự hiện
diện thống trị ở Afghanistan cho đến nay. Nó đóng một vai trò quan trọng
trong Chiến tranh Afghanistan trong những năm 1980 bằng cách cung cấp
hỗ trợ hậu cần và tình báo cần thiết cho các phiến quân Afghanistan. ISI
cũng như thực hiện các hoạt động bí mật ở Ấn Độ, Libya, Iran và Iraq.
10. Cơ quan tình báo bí mật của Australia
Thành lập: 1952
Ngân sách năm: 337 triệu USD (2017)
Cơ quan Tình báo Australia (ASIS), là bộ phận của Cộng đồng Tình báo
Australia, có nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo từ nước ngoài liên
quan đến an ninh nội địa và lợi ích chiến lược của Australia. Được thành
lập năm 1952 theo lệnh hành pháp, tuy nhiên, sự tồn tại của ASIS lần
đầu tiên được công khai vào năm 1972. Hầu hết các hoạt động của ASIS
trong những năm gần đây vẫn được giữ bí mật.
Trong một cuộc họp báo công khai vào năm 2012, Tổng giám đốc ASIS đã
tuyên bố, họ đang gia tăng chỗ đứng của mình ở một số khu vực biến động
nhất trên thế giới. Năm 2013, cơ quan này đã tham gia vào việc bắt giữ
một binh sĩ Afghanistan giả mạo và bị tình nghi là điệp viên Taliban, kẻ
đã giết ba binh sĩ Australia trong một cuộc tấn công nội gián tại một
căn cứ xăng dầu./.
Đầu mối của các cuộc xung đột trong vùng bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa
dân Israel và người Palestine, từ năm 1948 khi nước Israel thành lập và
dân Á Rập chạy tị nạn chiến tranh.
Chính phủ Mỹ tuyên bố sẽ ủng hộ Israel đến cùng, sau vụ đột kích và
tàn sát 1,400 thường dân do nhóm Hamas chủ mưu. Tổng thống Joe Biden nói
cho nước Israel yên lòng, sau đó mới ngỏ lời khuyên Thủ tướng Benjamin
Netanyahu: Không nên hành động trong lúc nóng giận. Ông nhắc lại kinh
nghiệm của nước Mỹ sau vụ khủng bố làm chết 3 ngàn người ở New York. Kinh nghiệm của nước Mỹ cho thấy đánh chiếm một nước đối nghịch có
thể dễ dàng, nhưng phải tính trước sẽ làm gì sau đó. Hai tháng sau vụ 11
tháng 9 năm 2001, quân Mỹ đã chiếm được thủ đô Kabul của Afghanistan.
Mười năm sau biệt kích Mỹ giết được lãnh tụ al-Qaeda, Osama bin Laden, ở
Pakistan. Năm 2021 quân Mỹ phải rút khỏi Afghanistan sau khi hy sinh
2,400 binh sĩ; phe Taliban trở lại nắm chính quyền. Tại Iraq, quân Mỹ
cũng đánh chiếm thủ đô Baghdad nhanh chóng, rồi bắt, giết Saddam
Hussein. Rồi cũng phải tiếp tục giúp chính phủ Iraq tiêu trừ các nhóm
nổi dậy. Hơn 4,500 quân Mỹ thiệt mạng, cùng với 300,000 người Iraq. Ông Netanyahu có vẻ nghe theo lời ông Biden khuyên, đến hôm nay quân
đội Israel chưa đánh vào giải Gaza để “tiêu diệt” tổ chức Hamas, như ông
đã tuyên bố. Chính phủ Israel phải tính trước hai điều: Đánh thế nào?
Và đánh chiếm được rồi, sẽ làm gì? Israel đã cai trị giải Gaza từ năm 1967 đến năm 2005. Sau đó, quân
Israel đánh vào giải Gaza 4 lần, lần cuối vào các năm 2009 và 2014;
nhưng mỗi lần chỉ khoảng 18 ngày sau đã rút quân về. Bây giờ, cuộc đánh,
chiếm cứ còn khó khăn gấp bội. Thứ nhất, là suốt 16 năm qua quân Hamas
đã đào 500 km đường hầm chằng chịt dưới những khu gia cư chen chúc,
trong một giải đất chỉ rộng khoảng 10 km và dài 40 km. Các vệ tinh nhân
tạo và máy bay không người lái không thể nhìn thấy các đường hầm. Khi
quân tấn công chui vào hầm thì các làn sóng dùng cho radio và hệ thống
định vị GPS hết hiệu lực. Sau chiến dịch năm 2014, quân đội Israel đã
huấn luyện các toán quân chuyên môn đánh trong đường hầm. Họ tìm cách
khám phá các cửa đầu hầm, các địa điểm khi các máy điện thoại di động
của quân Hamas bỗng dưng mất sóng. Cuộc chiến trong đường hầm có thể sẽ
kéo dài nhiều tháng, có thể hàng năm. Khó khăn thứ hai là số dân cư đông đúc, hơn 2 triệu người, khó phân
biệt đâu là cứ điểm quân sự, chỗ nào chỉ có thường dân. Quân đội Israel
đã yêu cầu dân Palestine ở phía Bắc giải Gaza hãy tản cư về phía Nam
trước khi bị tấn công. Hơn một triệu người đã di tản, nhưng máy bay
Israel cũng đánh bom cả những vùng phía Nam, giáp biên giới Ai Cập.
Trong hai tuần lễ, hơn 6000 thường dân đã chết vì bom, cao hơn số thương
vong trong những cuộc tấn công vào giải Gaza trước đây. Nếu Israel tiến
quân và cuộc chiến kéo dài, số thường dân chết sẽ lên cao, cả thế giới
sẽ xúc động, tạo áp lực ngoại giao yêu cầu Israel ngưng chiến. Ngay bây
giờ, Hoàng hậu Rania, nước Jordan, đã kết án các nước Tây phương im
lặng, làm ngơ trước con số hơn 6,000 dân Palestine tử vong, trong đó có
hơn 2,000 trẻ em. Ví thử quân Israel đánh chiếm, làm chủ được các thị trấn ở Gaza, thì
sau đó sẽ làm gì? Họ có thể truy lùng, tiêu diệt hết các thủ lãnh quân
Hamas, rồi quay về. Nhưng khi quân Israel rút đi, tàn quân Hamas sẽ tụ
họp lại ngay, những thủ lãnh mới sẽ xuất hiện. Dù các người chỉ huy bị
giết hay bị bắt hết, sẽ có những người khác nổi lên, chờ nghe lệnh của
giới lãnh đạo chính trị Hamas vẫn sống lưu vong tại vương quốc Qatar. Ngược lại, quân Israel có thể đóng lại ở Gaza lâu dài, như họ đã cai
trị vùng này trong những năm 1967 – 2005. Tổng thống Joe Biden đã khuyến
cáo Israel không nên tính chuyện chiếm đóng Gaza lâu dài sau cuộc tấn
công “tiêu diệt” nhóm Hamas, như ông Netanyahu đe dọa. Chính phủ Israel
sẽ chịu trách nhiệm về cuộc sống của 2.3 triệu dân, với gánh nặng chi
phí trên một vùng đất không có tài nguyên nào để khai thác, chưa kể phải
duy trì một lực lượng quân sự, cảnh sát giữ an ninh. Các cuộc nổi dậy
chống đối không bao giờ ngưng, sẽ đưa tới những cuộc đàn áp. Cả thế giới
chứng kiến sẽ lên tiếng chỉ trích Israel. Giải pháp có vẻ “đẹp nhất” là Israel trao cả vùng Gaza lại cho chính
quyền Palestine của Tổng thống Mahmoud Abbas, đang cai trị vùng Tây
Ngạn. Nhưng dân Palestine ở giải Gaza không còn chút lòng kính trọng nào
đối với ông Abbas. Nếu Israel đưa Abbas về lại Gaza sau những cuộc oanh
tạc và tấn công đẫm máu, dân chúng sẽ coi ông như một kẻ phản bội đóng
vai “bù nhìn.” Sau khi đảng Hamas thắng cử ở Gaza năm 2006, quân Fatah
của ông Abbas đã đánh nhau với họ và thua, rút hết về Tây Ngạn. Tới nay,
ông Abbas chỉ trực tiếp cai trị với hơn một triệu trong số gần 2.7
triệu dân, trong một phần ba đất vùng Tây Ngạn. Số còn lại do Israel
kiểm soát và dân Palestine luôn luôn xung đột với 700,000 người Israel
tới lập trại định cư rải rác trong vùng này. Lực lượng cảnh sát của ông
Abbas, 60,000 người, hoàn toàn bất lực trước các vụ đụng chạm liên miên
đó. Cuối cùng, Israel có thể quay trở lại giải pháp cũ khi họ từng cai
trị giải Gaza: Hợp tác với Ai Cập (Egypt), tuyển chọn, bổ nhiệm những
thủ lãnh dân sự địa phương, nắm quyền lo việc hành chánh, có quân đội
Israel bảo đảm an ninh. Nhưng hiện nay chính phủ Egypt không thể cộng
tác với Israel, cũng như các quốc gia Á Rập khác trong vùng, kể cả các
nước như Maroc, UAE, gần đây bắt đầu giao hảo với Israel. Dân Á Rập đã
biểu tình phản đối Israel khắp nơi vì các vụ đánh bom trên dân Palestine
ở Gaza. Trong lúc Israel chuẩn bị tấn công Gaza thì các lực lượng chống
Israel ở các nơi khác cũng hoạt động. Tại biên giới Lebanon phía Bắc,
đảng Hezbollah, có quân đội riêng, là một mối đe dọa thường xuyên từ gần
40 năm nay. Đạo quân Hezbollah xuất hiện sau cuộc tấn công của quân
Israel vào xứ Lebanon năm 1982 để đuổi các lãnh tụ Mặt trận Palestine ra
khỏi xứ này. Nhóm Hezbollah quy tụ những người theo giáo phái Shi A
trong Hồi Giáo, đồng đạo với đa số dân chúng Iran. Nhóm này, cũng như
Hamas, đều được Iran viện trợ tài chánh, vũ khí và huấn luyện quân sự. Trong khi chuẩn bị cuộc tấn công vào giải Gaza, chính phủ Israel đã
yêu cầu dân hai chục làng ở gần biên giới Lebanon, trong vòng vài chục
cây số, phải di tản, Giải đất nằm giữa hai nước có thể trở thành một
vùng oanh kích tự do, đề phòng quân Hezbollah tấn công để quân đội
Israel phải chia ra chống đỡ tại hai chiến trường. Thủ lãnh nhóm Hamas
đã gặp người đứng đầu đảng Hezbollah ở Lebanon, cùng với nhóm Thánh
chiến Hồi Giáo Palestine, bàn việc phối hợp. Chính phủ Biden gửi hai hàng không mẫu hạm tới phía Đông Địa Trung
Hải là một lời cảnh cáo đối với lực lượng Hezbollah và Iran. Nhưng không
ai đoán được chế độ thần quyền ở Tehran sẽ toan tính thế nào. Họ có thể
xúi dục các đám quân do Vệ binh Cách mạng Hồi Giáo Quds (IRGC-QF) bảo
trợ, tại các nước Iraq, Syria, Lebanon, Yemen, đồng loạt mở các cuộc tập
kích, nhắm vào Israel và các căn cứ của 30,000 quân Mỹ trong vùng Trung
Đông. Họ có thể lôi cuốn Israel, và Mỹ, vào một cuộc chiến tranh hao
mòn lâu dài, trong khi nước Iran vẫn đứng ngoài, không tham gia trực
tiếp. Gần đây chính phủ Mỹ đã “trao đổi tù binh” với Iran, nhân đó, tháo
khoán $6 tỷ mỹ kim của Iran đang bị phong tỏa. Nhưng ngay sau khi quân
Hamas đột kích tàn sát người Israel, số tiền đó đang nằm ở ngân hàng tại
Doha, thủ đô xứ Qatar, đã bị Washington và Doha phong tỏa lại, Iran
không nhận được đồng nào. Nếu Iran thúc đẩy các đám quân phụ thuộc của
họ đánh vào Israel và quân đội Mỹ ở Trung Đông, Israel có thể sẽ bắn hỏa
tiễn thẳng vào Tehran; cuộc chiến có thể lan rộng, lôi kéo không lực Mỹ
trên các mẫu hạm vào mặt trận. Đầu mối của các cuộc xung đột trong vùng bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa
dân Israel và người Palestine, từ năm 1948 khi nước Israel thành lập và
dân Á Rập chạy tị nạn chiến tranh. Từ đó đến nay, phần lớn dân Palestine
vẫn sống trong các “trại tị nạn.” Giải pháp “hai quốc gia” sống bên
cạnh nhau được các nước nói tới nhiều lần, nhưng gần đây chính phủ
Israel đã bỏ qua. Thủ tướng Netanyahu nghĩ ông có thể chia rẽ chính
quyền Abbas và khối Hamas khiến dân Palestine bất lực, không cần đặt vấn
đề “hai quốc gia” nữa. Vụ tàn sát ngày 7 tháng 10 đã đánh thức cả thế
giới Á Rập và Hồi Giáo, khiến họ phải nhớ lại số phận lưu vong của dân
Palestine trong 75 năm qua. Hoàng hậu Jordan, Rania Al-Abdullah, đã nhắc đến các bà mẹ trong giải
Gaza viết tên con trên bàn tay các đứa bé, để nếu chết vì bom nổ thì hy
vọng vẫn có thể nhận diện, không bị chôn vào mồ tập thể. Bà nói, “Tôi
chỉ muốn nhắc nhở cả thế giới rằng các bà mẹ Palestine cũng yêu con như
tất cả các bà mẹ trên thế giới,” và kết luận: “… chỉ có một con đường,
là thiết lập một nước Palestine tự do, có chủ quyền, sống hòa bình bên
cạnh nước Israel.”
Ngô Nhân Dụng Ngô Nhân Dụng là bút hiệu của Đỗ Quý Toàn khi phụ trách mục Bình Luận trên Nhật báo Người Việt,
từ năm 1995 khi ông về định cư tại Quận Orange, California, cho tới
Tháng Hai năm 2020. Trước đó ông dạy môn Tài chánh học (Finance) ở các
Đại học McGill và UQAM tại Montréal, Canada là nơi gia đình ông tới
tị nạn từ năm 1975. Năm 1989, trước khi bức Tường Berlin sụp đổ, ông
xuất bản cuốn Đổi Mới Kinh Tế dưới bút hiệu Vương Hữu Bột, kể
kinh nghiệm thay đổi cơ cấu nền kinh tế cộng sản ở các nước từ Hungary,
Trung Quốc, tới Nga và các nước Đông Âu. Cuốn sách xuất bản gần đây
nhất, ký tên Ngô Nhân Dụng, là Đứng Vững Ngàn Năm – Nhờ đâu nước Việt vẫn còn sau ngàn năm Bắc thuộc? Cuốn sách đầu tiên ký tên Đỗ Quý Toàn xuất bản ở California là Yêu Con Dạy Con Nên Người Việt, do nhà Văn Nghệ ấn hành, năm 1979. Ông cũng đã in nhiều tập thơ từ năm 1965 và tập tiểu luận Tìm Thơ Trong Tiếng Nói do Thanh Văn xuất bản năm 1992. Trong blog này Ngô Nhân Dụng sẽ viết tiếp những bài Bình Luận về các
vấn đề thời sự thuộc các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, dưới mắt
nhìn của một người Việt sống xa quê hương. Đây là một blog cá nhân được đăng tải trên Đài VOA nhưng không nhất
thiết tương đồng với quan điểm của đài và của chính phủ Hoa Kỳ.