Thursday, June 4, 2015

Trụ sở Liên Hiệp Quốc và AIEA trong tầm ngắm của tình báo Mỹ





Căn cứ trên những tiết lộ của Edward Snowden, tạp
chí Đức, Der Spiegel ấn bản ngày 25/08/2013 tiết lộ trụ sở Liên Hiệp
Quốc tại New York và của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế AIEA tại
Vienna từng bị Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ NSA từng bí mật theo dõi.








Theo một số tài liệu Der Spiegel
thu thập được, vào mùa hè năm 2012, các chuyên gia của NSA đã giải mã và
đột nhập được vào hệ thống video hội nghị nội bộ của Liên Hiệp Quốc.
Trong ba tuần lễ NSA đã giải mã được 458 cuộc trao đổi nội bộ của Liên
Hiệp Quốc thay vì 12 cuộc như trước đó. Ngoài ra, ngành tình báo Hoa Kỳ
còn theo dõi phái bộ của Liên hiệp châu Âu bên cạnh Liên Hiệp Quốc khi
họ vừa chuyển về văn phòng mới vào mùa thu năm ngoái. 



Vẫn theo các tài liệu tuần báo Đức được Snowden cung cấp, NSA có lập
hẳn một chương trình mang tên « Special Collection Service » để quan sát
các hoạt động của hơn 80 tòa đại sứ và lãnh sự trên thế giới. Tạp chí
Đức kết luận : « Công việc giám sát này được tổ chức chặt chẽ ở quy mô
rất lớn nhưng chỉ liên quan rất ít, hoặc không liên quan gì, tới mục
tiêu ngăn ngừa khủng bố ». 



Vẫn theo Der Spiegel, việc tình báo Hoa Kỳ đột nhập vào hệ thống
video hội nghị của Liên Hiệp Quốc đã giúp cho NSA thu thập và giải mã
được rất nhiều tài liệu. Tuy nhiên bản tin của AFP cho hay là tuần báo
Đức, Der Spiegel trích dẫn một báo cáo nội bộ của Cơ quan An ninh Quốc
gia Mỹ theo đó, NSA vào năm 2011 từng bắt quả tang tình báo Trung Quốc
nghe lén các cuộc điện đàm của Liên Hiệp Quốc. 



Trước đây, báo Anh The Guardian và tạp chí Đức Der Spiegel từng tiết
lộ ngành tình báo Hoa Kỳ đã theo dõi văn phòng đại diện của Liên hiệp
châu Âu tại Bruxelles, New York và Washington.



Châu Âu đang rúng động trước những tiết lộ của Snowden liên quan đến
chương trình PRISM của Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ. Từ nhiều tuần qua,
chính quyền Obama cố gắng giải thích với quốc tế về tính chính đáng của
chương trình thu thập thông tin cá nhân do NSA tiến hành.




Cơ Quan Tình Báo Anh Quốc




Tối qua, 09/11/2013, theo Reuters, Quốc hội Anh sẽ
có cuộc chất vấn tổng biên tập báo The Guardian vào tháng 12 tới, về
việc công bố các tài liệu mật mà cựu nhân viên an ninh Mỹ Edward Snowden
tiết lộ. Điều tra của The Guardian và nhiều tờ báo khác về các thông
tin do Snowden cung cấp cho thấy quy mô lớn của « mối quan hệ đặc biệt
» giữa Anh và Mỹ trong lĩnh vực thu thập tin gián điệp. Điều đặc biệt
đáng chú ý là việc Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) chi các khoản tiền
lớn cho cơ quan tình báo lớn nhất của Anh Quốc.







Im lặng tuyệt đối là quy tắc vàng
của Tổng hành dinh Thông tin của Chính phủ/Government Communications
Headquarters (GCHQ), cơ quan tình báo Anh Quốc. Với hơn 6.000 nhân viên,
đây là cơ quan tình báo lớn nhất nước Anh. Theo các thông tin mà báo
chí đưa ra, cơ quan này phối hợp chặt chẽ với NSA. Cơ quan tình báo Anh
GCHQ được NSA tài trợ gần 120 triệu đô la trong thời gian gần ba năm trở
lại đây. 



Theo các tài liệu mà cựu nhân viên tư vấn an ninh Snowden, hiện đang
tỵ nạn tại Nga cung cấp, thì các hoạt động gián điệp thu thập tin tức
trong lĩnh vực đời sống riêng tư của cơ quan tình báo Anh còn tệ hơn cả
tình báo Mỹ. GCHQ kiểm soát hơn 200 đường dây cáp quang xuyên Đại Tây
Dương, nhờ thế cơ quan tình báo này có thể thâu thập và xử lý tới 600
triệu dữ liệu một ngày. Cũng theo báo chí, tình báo Anh có thể đã tiến
hành một chiến dịch kiểm soát quy mô lớn mang tên « Tempora »,
với ngân phí hơn một tỷ euro với nhiều cơ sở bí mật trên khắp thế giới,
trong đó có một cơ sở tại vùng Trung Đông. Có một sự phân công nhiệm vụ
thực sự giữa Anh và Mỹ trong lĩnh vực tình báo. Phía Mỹ, thâu thập các
tin tức qua vệ tinh và trên các giải tần, còn phía Anh chịu trách nhiệm
về việc nghe trộm trên mặt đất và lấy thông tin qua máy tính. 



Các phát giác kể trên của tờ The Guardian về hoạt động gián điệp của
GHCQ và các cộng tác của cơ quan tình báo Anh với tình báo Mỹ làm Thủ
tướng Anh David Cameron lúng túng. Các nghị sĩ đảng bảo thủ cầm quyền
giận dữ, vì lo ngại rằng an ninh quốc gia của Anh bị tổn hại. Vào tháng
trước, Thủ tướng Cameron đã đe dọa can thiệp để cản trở không cho The
Guardian công bố các tài liệu mật.




Stasi Cơ Quan Tình Báo Đông Đức








Bộ An ninh Quốc gia (tiếng Đức: Ministerium für Staatssicherheit, MfS), thường được biết đến là Stasi (IPA: [ˈʃtɑːziː]) (viết tắt tiếng Đức: Staatssicherheit, nghĩa là An ninh Quốc gia), là cơ quan tình báo nội vụ và hải ngoại của Cộng hoà Dân chủ Đức (hay còn gọi là Đông Đức). Nó còn có nhiệm vụ điều tra những hành động phạm pháp về chính trị. Stasi có trụ sở tại Đông Berlin,
toạ lạc tại một khu riêng biệt lớn ở Lichtenberg, Berlin cùng với một
số văn phòng nhỏ hơn ở khắp thành phố. Bộ này về mặt đối nội là một dụng
cụ để đàn áp và kiểm soát người dân DDR của Đảng SED để mà có thể giữ
được quyền lực. Nó dùng tất cả mọi phương tiện để kiểm soát, đe dọa,
khủng bố[1][2] và đập tan những phe đối lập và những người chỉ trích chế độ. Đây được coi là một trong những cơ quan tình báo và cảnh sát mật hoạt động hiệu quả nhất thế giới. Khẩu hiệu của nó là "Schild und Schwert der Partei"
(Lá chắn và Thanh gươm của Đảng), có nhắc đến Đảng Xã hội Thống nhất
Đức (SED). Ngày nay nó bị coi là một tổ chức tội phạm. Sau năm 1990, một
số nhân viên của Stasi đã bị khởi tố do những tội phạm của mình.



Bên cạnh MfS còn có một cơ quan tình báo khác ở DDR, cơ quan tình báo Quân đội với trụ sở ở Berlin-Köpenick.



Thành lập Stasi



Stasi được thành lập ngày 8 tháng hai, 1950[3]. Nó phỏng theo mô hình hoạt động của MGB ("Bộ An ninh Quốc gia" của Liên Xô). Wilhelm Zaisser là bộ trưởng đầu tiên, và Erich Mielke là đại diện của ông. Cho tới cuối năm đó thì bộ này đã có tới 2700 nhân viên. Zaisser, người mà đã cố hạ bệ tổng bí thư SED Walter Ulbricht sau cuộc nổi dậy vào năm 1953 tại Đông Đức (Aufstand des 17. Juni),[4] đã bị Ulbricht thay thế bởi Ernst Wollweber. Wollweber đã từ chức năm 1957 sau khi đụng chạm với Ulbricht và Erich Honecker, và người đại diện cho ông ta, Erich Mielke, đã lên nắm quyền.


Năm 1957, Markus Wolf trở thành trưởng phòng của cơ quan tình báo hải ngoại với tên gọi là Hauptverwaltung Aufklärung.
Wolf đã đạt được nhiều thành công trong nhiệm vụ đưa gián điệp trà trộn
vào chính phủ, các giới chính trị và kinh tế của Tây Đức. Một trường
hợp mà gây nhiều tiếng vang nhất là vụ Günter Guillaume, khiến thủ tướng Tây Đức, ông Willy Brand phải từ chức vào tháng 5 1974. Năm 1986, Wolf về hưu và được nối tiếp bởi Werner Grossmann.

Tình Báo








Tình báo là hoạt động điều tra, thu thập, nghiên cứu, tổng hợp, xử lý những tin tức, tư liệu bí mật về quân sự, chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ... của đối phương.


Theo quy mô, có tình báo chiến lược, tình báo chiến dịch, tình báo chiến thuật, tình báo kinh tế.




  • Tình báo chiến lược hay bất cứ hoạt động tình báo nào khác cũng có
    những điểm cơ bản tương đồng và giống nhau là hoạt động rất bí mật, rất
    táo bạo, rất khôn ngoan, rất mưu lược, luôn luôn tạo được cho mình một
    vỏ bọc rất kín đáo qua một công việc hằng ngày nào đó



tự bản thân làm hoặc cài cắm vào lòng đối phương; luôn luôn làm việc rất chăm chỉ tận tụy, trung thành v.v..




  • Tình báo chiến thuật: là 1 lực lượng được đào tạo một cách đặc biệt
    chuyên nghiệp về rất nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đời sống của
    con người và cả thế giới xung quanh với mục đích cơ bản và chủ yếu là
    làm chiến thuật.

  • Tình báo chiến dịch: gần giống với tình báo chiến thuật phương pháp
    đào tạo cũng rất bài bản và chuyên nghiệp vận dụng mọi kiến thức đã được
    đào tạo một cách rất linh hoạt khéo léo để áp dụng một cách hiệu quả
    nhất vào một chiến dịch nào đó









Mục lục










Giới thiệu



Tình báo là một trong những nghề cổ xưa nhất trong lịch sử
loài người. Hoạt động tình báo xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà
nước. Từ xa xưa, hoạt động tình báo đã có mục đích thu thập những bí mật
về quân sự, kinh tế, chính trị, vấn đề nội bộ và các bí quyết trong sản
xuất kinh doanh của các đối thủ. Hoạt động tìm kiếm, thu thập các tin
tức về kinh tế, chính trị, nội bộ một cách bí mật nhờ bí quyết công nghệ
chính là khởi thủy của hoạt động tình báo.



Hoạt động tình báo là sự thu thập bí mật các thông tin hay các tin
tình báo, mà nguồn thông tin như thế lại được bảo vệ không cho tiết lộ.
Cơ quan tình báo dựa vào đây để đánh giá và xử lý thông tin cần thiết để
đưa ra những quyết định. Thông tin thì có liên quan đến việc thương
mại, quân đội, kinh tế hoặc các quyết định có tính chính trị nhưng
thường là liên quan đến chính sách đối ngoại và quốc phòng. Nói chung
tin tình báo có tính an ninh quốc gia và vì thế luôn được giữ bí mật.



Hoạt động tình báo hay gián điệp
theo luật pháp quốc gia là bất hợp pháp. Hoạt động gián điệp cũng phản
ánh những cố gắng của cơ quan phản gián trong việc bảo vệ bí mật của
thông tin.



Ở Mỹ có cục tình báo trung ương, CIA (Central Intelligence Agency) là cơ quan chính chuyên thu thập những thông tin bí mật có liên quan tới an ninh quốc gia. Cục Điều tra Liên bang (FBI:
Federal Bureau of Investigation) có nhiệm vụ chủ yếu trong các hoạt
động phản gián của nước Mỹ, và cũng phối hợp với CIA chịu trách nhiệm
trong các điệp vụ bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Trong suốt thời kỳ chiến
tranh lạnh, cả FBI và CIA đều chủ yếu tập trung sự chú ý của họ vào Ủy
ban an ninh quốc gia của Xô Viết (KGB Komitet Gosudarstvennoy Bezopasnosti). Tiếp theo sau sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết năm 1991 và sự tan rã của KGB thì trong nhiều đơn vị mới, nhiệm vụ của CIA lại chịu sự thẩm vấn của quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ.
Ít ra lúc ban đầu, cơ quan chẳng những giữ nhiệm vụ thu thập và phân
tích thông tin, mà còn phản gián ở nước ngoài và những hình thức hành
động mật khác (như: can thiệp chính trị, tổ chức tuyên truyền bí mật,
các hoạt động bán quân sự) mà đòi hỏi phải cực kỳ bí mật. Các cơ quan
đặc biệt của thượng nghị viện liên tục giám sát các hoạt động của CIA.



Các phương thức tình báo quốc tế
và các điệp vụ có một số ranh giới. Chúng được tiểu thuyết hóa trong
tiểu thuyết được nhiều người ưa thích hoặc phương tiện truyền thông đại
chúng, nhưng trên thực tế, tình báo lại tồn tại trong một thế giới bí
mật của sự mưu mẹo gian trá, lừa gạt và đôi khi có cả bạo lực. Tình báo
bao gồm tuyển mộ các điệp viên ở nước ngoài; nỗ lực khuyến khích sự phản
bội để có các thông tin quan trọng và nghe lén cũng như sử dụng máy
chụp hình hiện đại, khả năng phán đoán, các thiết bị dò tìm và các kĩ
thuật khác suy luận ra thông tin mật.





Sự biện hộ và luật pháp quốc tế



Để chấp nhận và thi hành chính sách liên quan đến nước ngoài, kế
hoạch chiến lược quân sự và tổ chức lực lượng vũ trang, kiểm soát ngoại
giao, thương lượng những thỏa thuận kiểm soát vũ khí hay tham gia những
hoạt động của tổ chức quốc tế, các quốc gia đòi hỏi phải có một lượng
thông tin khổng lồ. Như thế thì chẳng có gì ngạc nhiên khi nhiều chính
phủ duy trì một vài cơ quan tình báo có năng lực như một vấn đề có tính
sống còn trong một thế giới mà những mối đe dọa và những thay đổi vẫn
còn tồn tại. Chiến tranh lạnh đã đi qua, nhưng những hành động gây chiến
tranh vẫn tiếp diễn ở những nơi như Đông Âu, Trung Đông và những nơi
khác.



Tất cả các quốc gia đều có luật chống lại hoạt động tình báo, nhưng
hầu hết đều đỡ đầu cho các hoạt động gián điệp ở nơi khác. Vì che giấu
bản chất của tình báo nên không thể biết xác thực có bao nhiêu điệp viên
đang hoạt động – chỉ có một số nhỏ phần trăm thực sự là gián điệp. Ước
tính chung là Mỹ ngày nay có khoảng 200.000 nhân viên tình báo. Còn số lượng nhân viên tình báo của Liên Xô
trong những năm 1980 thì khoảng chừng 400.000 ngàn người, một con số
cho thấy đây cũng bao gồm lính bảo vệ biên giới và cảnh sát an ninh nội
địa.





Việc thu thập tin tức tình báo



Công việc tình báo, bao gồm gián điệp, tiến hành theo quy trình 5
bước. Đầu tiên, những gì mà người tạo ra quyết định cần biết là được cân
nhắc và các thủ tục được thiết lập. Bước thứ hai là thu thập thông tin
cần biết mà yêu cầu là phải biết thông tin đó ở đâu, ai đang có những
thông tin đó. Thông tin có thể có sẵn trên một tờ báo nước ngoài, rađiô,
hay những nguồn thông tin mở khác; hoặc chỉ có thể lấy được thông tin
bằng những phương tiện điện tử tinh vi hoặc bằng cách gài một điệp viên
vào vùng mục tiêu. Bước thứ ba là các sản phẩm thông tin tình báo mà các
dữ liệu thô thu về được tập hợp lại, đánh giá và đối chiếu.



Bước thứ tư là chuyển những thông tin đã xử lý cho người cần biết. Để
có ích, thông tin phải kịp thời, chính xác và có thể hiểu được. Bước
thứ năm và cũng là bước quyết định là sử dụng thông tin tình báo. Điểm
mấu chốt là ở chỗ người cần thông tin phải đưa ra quyết định có tính
quyết định về việc có hay không hoặc làm thế nào để dùng nguồn tin này.
Quá trình gián điệp có thể thất bại tại bước này hoặc các bước khác.





Tuyển mộ các nhân viên tình báo



Ngày nay, rất nhiều quốc gia phát triển có những tổ chức tình báo
hoạt động có hiệu quả với những chương trình tuyển mộ nhân viên tình báo
mới một cách có hệ thống. Có ba nguồn chính cung cấp điệp viên là: giới
đại học, nơi mà các sinh viên được tìm kiếm và huấn luyện nghề tình
báo; các lực lượng vũ trang và cảnh sát, đây là lực lượng đã có một
trình độ tình báo nhất định, và thế giới ngầm của gián điệp lực lượng
này có thể bao gồm cả tội phạm chỉ điểm có kinh nghiệm.



Những kẻ gián điệp thực sự có thể bao gồm đánh cắp tin tình báo hoặc
phản bội. Trong nhiều trường hợp các việc trên có thể do hám lợi hoặc
khó khăn về tài chính, nhưng cũng có các trường hợp khác như tham vọng,
tư tưởng chính trị hoặc chủ nghĩa dân tộc như: Oleg Vladimirovich
Penkovsky, một cán bộ có chức vụ cao của Liên Xô, đã cung cấp tin tình
báo cho các cơ quan tình báo phương Tây với suy nghĩ rằng phương Tây cần
được cảnh báo trước nguy hiểm, hay như H.A.R. ("Kim") Philby, một gián
điệp khét tiếng người Anh đã làm việc cho Liên Xô với lý do hệ tư tưởng.



Một vài điệp viên phải được tuyển chọn cẩn thận và đưa vào hoạt động;
tình nguyện viên khác được gọi là "walk-in". Loại người sau phải dùng
hết sức cẩn thận vì các trường hợp làm điệp viên hai mang đều xuất hiện ở
loại tình nguyện viên này. Điệp viên hai mang là những điệp viên giả vờ
đào ngũ, nhưng thực ra vẫn trung thành với tổ chức tình báo của họ. Các
nhân viên phản gián luôn chú ý đến các nhân viên tình nguyện hoặc những
kẻ đào ngũ và hạn chế dùng họ một cách hoàn toàn tin tưởng cho những
mục đích tình báo. Trong một số trường hợp, gián điệp có giá trị nhất là
"điệp viên nằm vùng", đây là người giữ một vị trí đáng tin cậy có thể
tiếp cận được các tin tức tình báo tối mật, ngoài ra còn có những người
được tuyển mộ bởi một cơ quan tình báo nước ngoài được gọi là một "điệp
viên nhị trùng"



Một mục tiêu tình báo ưu tiên hàng đầu là thâm nhập vào các tổ chức
khủng bố quốc tế khác nhau. Như thế có thể giúp ngăn chặn được các âm
mưu khủng bố.





Lịch sử tình báo



Tình báo sớm được thừa nhận như là một công cụ không thể thiếu trong
thuật lãnh đạo đất nước, trong ngoại giao hay chiến tranh. Trong tác
phẩm được viết cách đây 2000 năm, nhà lý luận quân sự người Trung Hoa Tôn Tử đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tình báo. Quyển sách của ông mang tên Binh pháp Tôn Tử
(khoảng năm 500 TCN) đã đưa ra chi tiết về việc tổ chức một hệ thống
gián điệp bao gồm cả những điệp viên hai mang và những kẻ đào ngũ. Tuy
nhiên, trước khi chủ nghĩa dân tộc phát triển và sự phát triển của quân
đội thường trực cũng như các thiết lập ngoại giao thì cơ quan tình báo
không được các nhà cầm quyền và các tướng lĩnh quân sự tổ chức một cách
thống nhất.





Thế kỉ 19



Có thể nói tình báo chính trị lần đầu tiên được sử dụng một cách có
hệ thống bắt đầu do Joseph Fouché, duc d’Otrante, bộ trưởng cảnh sát
trong cuộc cách mạng Pháp và triều đại của Napoleon. Dưới quyền chỉ huy
của Fouché, một mạng lưới điệp viên cảnh sát và những điệp viên chuyên
mặc thường phục hoạt động bí mật để nắm rõ tiềm lực của những người theo
phái Gia-cô-banh và của những người bảo hoàng phản động. Chính khách
người Áo, Prince von Metternich cũng thành lập một tổ chức gián địêp
quân sự và chính trị có hiệu quả cao vào đầu thế kỷ 19.



Trong thời gian giữa thế kỉ 19, cảnh sát mật của Phổ (nay là lãnh thổ
thuộc Đức) được cải tổ lại và sử dụng với nhiệm vụ bảo vệ an ninh bên
ngoài cũng như bên trong quốc gia. Hệ thống tình báo Phổ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất đế chế Đức.
Nó cũng khống chế Pháp với một mạng lưới 30 ngàn điệp viên đã góp phần
vào chiến thắng của Đức trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871. Tuy
nhiên, mãi đến những năm của thế kỷ 19 thì các cục tình báo của các quốc
gia hiện đại mới hoạt động thường xuyên.





Đầu thế kỷ 20



Hệ thống tình báo đã hỗ trợ người Nhật chiến thắng người Nga trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905).
Khi chuẩn bị Chiến tranh thế giới thứ nhất, người Đức đã đưa vào Pháp
rất nhiều điệp viên, một vài trong số đó cải trang thành những đại diện
thương mại, giáo viên, lao động nông nghiệp hoặc người hầu. Bị cáo gián
điệp nổi tiếng nhất là Mata Hari, một diễn viên múa người Java ở Pari đã
bị người Pháp hành quyết. Các điệp viên người Đức cũng có những cố gắng
nhằm phá hoại hệ thống phòng thủ của Mỹ cả trước và sau khi Mỹ nhảy vào
Chiến tranh thế giới thứ nhất.



Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đã tham chiến với những đội ngũ tình
báo không đầy đủ và các tin tình báo trong các cuộc chiến rất nghèo nàn.
Những bài học của cuộc chiến tranh này là cùng với những tiến bộ vượt
bậc về kĩ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin liên lạc và hàng
không, đã thúc đẩy một sự phát triển lớn các cơ quan tình báo. Điều này
càng cấp bách hơn nữa bởi sự có mặt của chính quyền Phát-xít ở Châu Âu
và chế độ độc tài quân sự ở Nhật Bản và sự ra đời của các cơ quan phản
gián chẳng hạn như Gestapo của Đức Quốc xã. Những phát triển này đã dẫn
đến sự ra đời những hệ thống cơ quan phản gián của các nước dân chủ.





Chiến tranh thế giới thứ hai



Chiến tranh thế giới lần thứ hai là tác nhân kích thích lớn cho sự
phát triển của các cơ quan tình báo trên khắp thế giới. Kĩ thuật quân sự
và thông tin liên lạc hiện đại đã giúp cho thông tin trở nên chính xác
và nhanh chóng cũng như những nỗ lực bảo vệ thông tin nhạy cảm. Một vài
trận đánh lớn trong Chiến tranh thế giới thứ II thực sự là những trận
đánh của tình báo và phản gián. Trong những năm gần đây chỉ có một vài
kỳ công và thất bại trong cuộc chiến bí mật này được tiết lộ. Nổi tiếng
là điệp vụ chơi hai mặt (Operation Double Cross), trong đó người Anh đã
bắt giữ gần như tất cả các điệp viên của Đức tại Anh trong thời gian
chiến tranh. Và Anh cùng với đồng minh cũng đã bẻ khóa mật mã của Đức và
xâm nhập vào nhiều sóng truyền tin bí mật của quân địch.



Trận Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941
là một thành công tình báo lớn của Nhật và tình báo Mỹ là kẻ thất bại.
Thất bại này đã thúc đẩy sự phát triển bộ máy tình báo khổng lồ của Mỹ
sau chiến tranh. Trước Chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ hầu như không có
hệ thống tình báo; sau chiến tranh CIA trở nên có tiếng bởi tai mắt khắp
nơi, nối tiếp với các cơ quan tình báo như MI-6 của Anh, KGB của Liên
Xô, SDECE(the Service de Documentation Extérieure et de
Contre-Espionage) của Pháp, Cục tình báo đối ngoại của Israel, Văn phòng sự vụ xã hội của Trung Quốc và đông đảo các cơ quan khác trong cộng đồng tình báo và phản gián thế giới.





Cuối thế kỷ 20



Giữa những năm 1970, như một kết quả của sự tan vỡ ảo tưởng của cuộc chiến tranh Việt Nam, vụ bê bối Watergate và chính sách lắng dịu, nhiều người Mỹ bắt đầu đặt câu hỏi về vai trò của CIA. Các phương tiện truyền thông vạch trần những tồi tệ của và thất bại của cơ quan tình báo.




Tình báo chính trị và công nghiệp



Hoạt động tình báo và gián điệp là những việc làm phổ biến nhất có
quan hệ chặt chẽ với các chính sách đối ngoại của quốc gia, thời nay
thông tin mật thì rất cần thiết cho các quyết định chính trị, thương mại
và công nghiệp. Các đảng phái chính trị luôn quan tâm đến các kế hoạch
chiến lược của các đối thủ hoặc trong bất kỳ thông tin nào có thể là ảnh
hưởng đến uy tín của họ.



Ngày nay hầu hết những tập đoàn kinh doanh lớn đều có những bộ phận
chủ yếu dùng cho kế hoạch chiến lược mà đòi hỏi phải có những báo cáo
tình báo. Các công ty cạnh tranh không hề phủ nhận sự quan tâm của họ
đối với các kế hoạch chiến lược của các đối thủ cạnh tranh mặc cho các
luật lệ được đặt ra để ngăn cản.



Tất cả những hình thức và kĩ thuật của tình báo ngày nay được hỗ trợ
bởi kĩ thuật thông tin liên lạc và các thiết bị tính toán, đo đạc nhanh.
Các loại máy chụp ảnh và quay phim
cực nhỏ dễ dàng giúp cho người sử dụng có thể chụp những tài liệu hình
ảnh và phim bí mật. Các vệ tinh nhân tạo cũng là những công cụ tình báo –
chúng có thể chụp ảnh phát hiện những thiết lập quân sự bí mật. Tiên
phong trong những phát triển này là các loại điện thoại dùng công nghệ
không dây, chúng có thể được cài trong phòng (đối với các loại có khả
năng thu thanh) và các hình ảnh có thể chụp được trong bóng tối. Tuy
nhiên, "vỏ quýt dày có móng tay nhọn", sự leo thang cạnh tranh đã dẫn
đến sự ra đời các sản phẩm "chống lại" sản phẩm gián điệp.





Một số vụ điển hình về tình báo thời cổ xưa





Vụ ăn cắp bí mật tơ lụa của Trung Quốc












Cách đây 1500 năm, tơ lụa là mặt hàng độc quyền của Trung Quốc,
giá cả tơ lụa trên thị trường thế giới do Trung Quốc khống chế. Công
nghệ nuôi tằm lấy tơ dệt lụa là một bí mật quốc gia được người Trung
Quốc cất giữ trong nhiều thế kỷ. Sau sự kiện công chúa Trung Hoa giấu con tằm giống trong khăn trùm đầu vượt qua biên giới Trung Quốc sang Ấn Độ, công nghệ tơ lụa bắt đầu phát triển ở mảnh đất Nam Á này.



Để lấy được bí mật công nghệ sản xuất tơ lụa, Hoàng đế Đế chế Đông La Mã (nay là Hy Lạp), còn gọi là đế chế Byzantium, Justinian đã cho mời các Giáo sỹ Ba Tư
đang truyền giáo ở Ấn Độ tới gặp để nhằm nắm tình hình. Các giáo sỹ đã
cung cấp cho Hoàng đế những thông tin hết sức quan trọng, là muốn có lụa
tự nhiên cần phải nuôi một loại tằm nhả tơ đặc biệt chuyên ăn lá dâu để
thu kén làm nguyên liệu dệt lụa. Theo các giáo sỹ, điều kiện thổ nhưỡng
và khí hậu ở một số vùng của Hy Lạp rất giống với điều kiện ở Trung
Quốc và Ấn Độ phù hợp với loại cây dâu làm thức ăn cho tằm nhả tơ.



Công việc đặt ra quan trọng và khó khăn nhất là làm sao phải đánh cắp
bằng được con tằm giống mà Trung Quốc và Ấn Độ bảo vệ rất chặt chẽ. Một
mặt, Justinian cho người tìm kiếm giống dâu, mặt khác treo thưởng lớn
nếu giáo sỹ Ba Tư nào đánh cắp được con tằm giống đem về nước. Lợi dụng
lúc đi truyền giáo tại Ấn Độ, các giáo sỹ đã đánh cắp được con tằm rồi
giấu vào trong chiếc gậy thiền trượng rỗng mang về Đông La Mã. Chính vì
việc này, mà Hoàng đế Justinian đã phá được sự độc quyền về tơ lụa của
Trung Quốc, và Vương quốc này trở nên giàu có, khiến cho Trung quốc mất
đi khoản thu nhập khổng lồ; và từ những con tằm này đã đặt nền móng cho
ngành công nghiệp tơ tằm Bizantin sau này.





Vụ ăn cắp bí quyết công nghệ mía đường của Anh









Vào những năm 1809, Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte tuyên bố khóa chặt lục địa, và Anh tuyên bố đáp trả bằng một chiến dịch phong tỏa vùng biển nước Pháp, thì hầu như không một cây mía nào lọt được vào lục địa châu Âu.
Vốn là người thích ăn của ngọt, Napoléon đã tung ra những thám tử giỏi
nhất để tìm cách cứu nước Pháp thoát khỏi cuộc khủng hoảng đường. Các
thám tử đã tìm được một số nhà hóa học trong ngành mía đường của Anh, để
tìm hiểu công thức, từ đó Pháp đã nghiên cứu tìm ra công nghệ sản xuất
đường từ củ cải. Việc phát triển công nghệ sản xuất đường từ củ cải là
nhờ phần lớn vào công sức của các thám tử Pháp.





Các cơ quan tình báo nổi tiếng








Tình báo ở Việt Nam





Cụm tình báo quân sự H.63



Đầu năm 1961, cụm tình báo quân sự H.63 (ban đầu có tên là A18) ra đời, đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi tiếng Hai Trung. Thời kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung (X6, Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng viên báo nước ngoài, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý - cán bộ Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo. Năm 1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Tư Cang là người được ông Ba Trần,
Thủ trưởng Phòng tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư
Cang chính thức được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63. Sau chiến tranh,
"bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng (với những điệp viên tiêu
biểu: Tư Cang, Hai Trung, Tám Thảo, Mười Nho, Nguyễn Thị Ba...).[1]





Địa vị pháp lý








Tổ chức








Ảnh hưởng





Tiểu thuyết tình báo



Các điệp viên - người hoạt động tình báo, được các nhà văn xây dựng trong các tiểu thuyết trinh thám.
Thực tế thì các điệp viên chiến lược không bao giờ được phép mạo hiểm
vì một nhiệm vụ "chiến thuật". Họ không phải là biệt kích. Đối với họ,
dự một cuộc họp là quan trọng hơn đốt một kho hàng. Nhưng khi các nhà
văn viết truyện tình báo thì bị thôi thúc phải có sự ly kỳ, hình thành
một thói quen cố hữu rằng hễ sách tình báo là phải "giật gân". Dưới đây
là một số tiểu thuyết tình báo nổi tiếng:





  • X30 phát lưới. Xây dựng nhân vật Phan Thúc Định. Tác giả: Đặng Thanh.

  • TASS được quyền tuyên bố.... Tác giả: nhà văn Yulian Semyonov, xuất bản lần đầu năm 1979. Nhà xuất bản Cầu vồng - Moskva.[2]

  • Điệp viên 007. Xây dựng nhân vật James Bond (bí danh 007 hoặc là Điệp viên 007). Tác giả: nhà văn Ian Fleming, sáng tác vào năm 1951 và đã được đưa vào 12 cuốn tiểu thuyết,
    2 tuyển tập (cũng như loạt phim về các cuộc phiêu lưu của điệp viên
    này). Nhà xuất bản Jonathan Cape. Ngày phát hành: 1953-nay.





Phim trinh thám





  • TASS được quyền tuyên bố....
    Phim trinh thám được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn
    Yulian Semyonov, ra mắt lần đầu vào mùa hè năm 1984. Đạo diễn Vladimir
    Fokin


Tình Báo Do Thái





Cộng đồng tình báo Do Thái có 3 cơ quan chính là: Tình báo quốc nội
(Shin Bet), Tình báo Quân đội (Aman) và tình báo hải ngoại là Mossad.
Mossad có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo, chống khủng bố, tiến hành
các chiến dịch bí mật như các hoạt động bán du kích.

1. Mở bài
Hiện
nay, không một cơ quan mật vụ nào trên thế giới bí ẩn, gây sợ hãi và
được khâm phục hơn Mossad, cơ quan tình báo hải ngoại của Do Thái, với
những cấu trúc độc nhất vô nhị, cũng là một cơ quan gián điệp vấy máu
nhiều nhất trong lịch sử tình báo thế giới. Chủ trương của Mossad là ăn
miếng trả miếng, nợ máu phải trả bằng máu, theo phương thức của sư thái
chưởng môn phái Nga My là đuổi tận, diệt tuyệt. Kẻ thù, khi đã bị đưa
tên vào danh sách tìm diệt, thì dù cho có cao bay, xa chạy đến tận góc
biển chân trời nào, ẩn trốn đến bao lâu, thì cũng bị thiên la địa vỏng
của Mossad tìm đến, đưa về chầu diêm chúa.



 

Không
những thế, việc trả thù còn nhắm vào thân nhân của những tên khủng bố,
trước khi ra tay thanh toán, bộ phận tâm lý chiến của Mossad lại cho gởi
vòng hoa và thiệp chia buồn với những hàng chữ “Xin nhắc nhở rằng,
chúng tôi không quên và cũng không tha thứ”. Sau khi đưa nạn nhân về địa
ngục, lại cho đăng phân ưu trên những tờ báo Á Rập, phát hành khắp cả
Trung Đông.
Phương pháp hành động của Mossad là ném đá dấu tay, quyết
không để lại một dấu vết nào, một chứng cớ nào, sau khi thi hành lệnh
hành quyết.
Cộng đồng tình báo Do Thái có 3 cơ quan chính là: Tình
báo quốc nội (Shin Bet), Tình báo Quân đội (Aman) và tình báo hải ngoại
là Mossad. Mossad có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo, chống khủng bố,
tiến hành các chiến dịch bí mật như các hoạt động bán du kích. Mossad
được thàng lập tháng 12 năm 1949, đến tháng 3 năm 1951, tái tổ chức,
trực thuộc văn phòng thủ tướng. Báo cáo trực tiếp với thủ tướng. Nhân
viên hiện tại có khoảng 1,200.

2. Lý do sắt máu






Người Do Thái, sau khi bị diệt chủng 6 triệu người trong những trại
tập trung của Đức Quốc Xã, và kể từ khi thành lập quốc gia, từng ngày,
từng giờ, phải đối diện với cơn ác mộng bị xoá tên trên bản đồ thế giới,
bởi khối Á Rập khổng lồ bao quanh.
Mọi người Do Thái, nam cũng như
nữ, mỗi người là một tay súng, vừa học hành, làm việc và sẵn sàng chiến
đấu để được sống còn, bảo vệ quốc gia, dân tộc. Những người chưa bị mất
nước, chưa bị diệt chủng, chưa bị kẻ thù hăm doạ, có lẻ không hiểu nổi
tâm tình của người dân đối với quốc gia, dân tộc, cũng như đối với kẻ
thù, như người Do Thái cả.
Cái lợi thế của Mossad trong việc đào tạo
một điệp viên, sẽ không khó gì rèn luyện một người nói tiếng Đức thành
thạo, thao tác đúng với một sĩ quan Quốc Xã. Cũng không thiếu gì những
người Viễn Đông, người Nga thật sự, hay một người thành thạo tiếng lóng
của Hoa Kỳ, bởi vì trước kia, người Do Thái sống rải rác khắp nơi trên
thế giới.
Mối lo ngại hiện nay của Do Thái là chương trình sản xuất
vũ khí nguyên tử của Iran, một quốc gia Hồi giáo, chủ trương xoá tên Do
Thái trên bản đồ thế giới.

3. Do Thái tấn công chương trình hạt nhân của Iran

 


Người
Do Thái, sau khi bị diệt chủng 6 triệu người trong những trại tập trung
của Đức Quốc Xã, và kể từ khi thành lập quốc gia, từng ngày, từng giờ,
phải đối diện với cơn ác mộng bị xoá tên trên bản đồ thế giới, bởi khối Á
Rập khổng lồ bao quanh.
Mọi người Do Thái, nam cũng như nữ, mỗi
người là một tay súng, vừa học hành, làm việc và sẵn sàng chiến đấu để
được sống còn, bảo vệ quốc gia, dân tộc. Những người chưa bị mất nước,
chưa bị diệt chủng, chưa bị kẻ thù hăm doạ, có lẻ không hiểu nổi tâm
tình của người dân đối với quốc gia, dân tộc, cũng như đối với kẻ thù,
như người Do Thái cả.
Cái lợi thế của Mossad trong việc đào tạo một
điệp viên, sẽ không khó gì rèn luyện một người nói tiếng Đức thành thạo,
thao tác đúng với một sĩ quan Quốc Xã. Cũng không thiếu gì những người
Viễn Đông, người Nga thật sự, hay một người thành thạo tiếng lóng của
Hoa Kỳ, bởi vì trước kia, người Do Thái sống rải rác khắp nơi trên thế
giới.
Mối lo ngại hiện nay của Do Thái là chương trình sản xuất vũ
khí nguyên tử của Iran, một quốc gia Hồi giáo, chủ trương xoá tên Do
Thái trên bản đồ thế giới.
Cựu giám đốc tình báo Mossad, Meir Dagan,
không đồng ý một cuộc chiến tranh quân sự với Iran, cho rằng như thế
không ngăn chặn được chương trình sản xuất vũ khí nguyên tử của nước
nầy, trái lại, nó có thể dẫn đến thảm họa của một xung đột lớn trong
vùng, kéo cả người Á Rập Hồi giáo như tổ chức Hamas, Hezbollah và có thể
cả Syria vào nữa.
Meir Dagan ủng hộ bất cứ giải pháp nào có thể ngăn chặn chương trình hạt nhân mà không phát động chiến tranh quân sự với Iran.
Trong
8 năm giữ vai trò lãnh đạo Mossad, Meir Dagan đã tạo ra một thứ vũ khí
thần kỳ, tuy không nói tên, nhưng rất nhiều người biết, đó là những cuộc
tấn công chương trình hạt nhân Iran bằng một loạt sâu máy tính có tên
Stuxnet.





3.1. Virus Stuxnet

Điểm đặc biệt của virus Stuxnet là có thể xâm
nhập vào máy tính an ninh cao mà không cần phải nối kết vào Internet,
một điều tưởng chừng như không có thể làm được.

Từ tháng 6 năm
2010, Stuxnet đã tấn công, và phát ra lịnh tự hủy, đối với hệ thống máy
tính thuộc cơ sở hạt nhân Natanz của Iran, nơi mà các khoa học gia đang
điều khiển các máy ly tâm làm giàu chất Uranium. Do Thái là nước tạo ra
thứ vũ khí ảo, phi thường nầy.

3.1.1. Lần theo dấu vết
 Symantec
là một công ty an ninh mạng có chi nhánh đặt tại Tel Aviv, Do Thái.
Người đứng đầu chi nhánh là Sam Angel cho biết: “Stuxnet là một cuộc tấn
công tinh vi mà tôi chưa từng thấy, đã tấn công vào một công nghiệp lâu
đời và đặc biệt là không nối kết với Internet, là một việc hiếm có. Các
nước hứng chịu cuộc tấn công nầy là Iran, Indonesia, Malaysia và
Belarus”.
Ngày 17-6-2010, Ulasen, một chuyên viên của công ty an ninh
mạng, có tên là VirusBlokAda, tại Minsk, nhận được một Email của công
ty Iran, phàn nàn rằng, những máy tính của họ liên tục bị tắc, rồi lại
tự khởi động. Ulasen và một chuyên viên khác phải mất một tuần lễ để
kiểm tra, thì mới phát hiện ra Stuxnet. Ulasen bèn thông báo cho các
công ty an ninh mạng, trong đó có Symantec.
Một kỹ sư tại Symantec đã
phát hiện ra 2 máy tính chỉ huy cuộc tấn công nầy. Một trong những máy
chủ (Server) ở Malaysia và một server khác thì ở Đan Mạch.
Cả 2 máy chủ nầy đều được truy cập vào được bằng địa chỉ www.todaysfutbol.com và địa chỉ www.mypremierfutbol.com.
Hai địa chỉ nầy được đăng ký dưới cái tên giả, bằng thẻ tín dụng giả,
qua một công ty đăng ký Internet lớn nhất thế giới, có trụ sở ở Arizona,
Hoa Kỳ.

Symantec đã liên lạc, ra và vào, tại 2 máy chủ nầy để theo dõi hoạt động của Stuxnet.
Theo
phân tích, Stuxnet đã lây nhiễm khoảng 100,000 máy tính trên thế giới,
trong đó, có hơn 60,000 ở Iran, hơn 10,000 ở Indonesia và 5,000 ở Ấn Độ.
Tại
Natanz, các máy ly tâm được bảo vệ an ninh quân sự. Các máy ly tâm cao
1.8m, đường kính 10cm được đặt bên trong những boongke. Điều khiển hệ
thống máy ly tâm là hệ thống điều hành Siemens do Đức chế tạo, chạy với
Microsoft Windows.

3.1.2. (Phần kỹ thuật). Các lỗ hổng an ninh và kế điệu hổ ly sơn.

 


Stuxnet
lợi dụng các lỗ hổng trong Windows để thao tác với hệ thống. Virus vào
các máy tính qua các ổ USB. Ngay khi ổ nầy được nối kết với một máy tính
trong hệ thống, thì việc cài đặt virus xảy ra âm thầm.
Trước hết, Stuxnet tìm kiếm các chương trình diệt virus trong máy để phá hỏng hoặc gỡ bỏ các chương trình đó.
Bước
thứ hai, Stuxnet trú ẩn trong một phần của hệ quản lý và điều hành USB
đó, và thiết lập đặc số kiểm tra, mục đích để làm gì thì các chuyên viên
chưa biết rõ được.
Việc lây nhiễm sẽ dừng lại khi tổng số kiểm tra
đạt đến giá trị bằng con số 19790509. Symantec suy đoán con số nầy là
một mã số nào đó, khi đọc ngược lại, thì con số biểu thị ngày
09-05-1979, đó là ngày mà một thương gia Do Thái tên Habib Elghanian, bị
Iran xử tử.
Đây có phải là sự việc trùng hợp hay không? Hay là một kế điệu hổ ly sơn, nhằm đánh lạc hướng?

Theo
thuật ngữ chuyên môn, thì trong hệ điều hành (Operating System) Windows
có những lỗ hổng an ninh gọi là lỗ hổng “Zero-day”, là những lỗ hổng mà
chưa có “bản vá”. Ngoài chợ đen, lỗ hổng thông thường giá 100,000USD
bán cho những tin tặc (Hacker).
Stuxnet đã khai thác ít nhất 4 lỗ
hổng an ninh như vậy. Đối với Do Thái, việc tìm ra những lỗ hổng như
thế, thì ngoài khả năng của họ.
Vậy, làm thế nào mà Mossad có được những thông tin về công nghệ vi tính Siemens đang được xử dụng tại trung tâm Natanz của Iran?

những đồn đoán cho rằng Hoa Kỳ đã giúp Do Thái trong việc nầy, bởi vì,
có một viện nghiên cứu của chính phủ Hoa Kỳ ở Idaho, nơi đó các khoa học
gia nghiên cứu công nghệ điều khiển vi tính Siemens đang được xử dụng ở
Natanz.





4. Chiến dịch ám sát các khoa học gia nguyên tử Iran

Ngày
15-1-2011, tờ New York Times cho biết, Do Thái đã thử nghiệm có hiệu
quả, là virus Stuxnet đã làm ngừng quay khoảng 1,000 máy ly tâm của Iran
trong tháng 11 năm 2010, thật sự đã làm chậm lại sự phát triển chương
trình hạt nhân của nước nầy.
Hai nhiệm vụ chính của sâu máy tính
Stuxnet là, tấn công làm mất quyền điều khiển của các máy ly tâm, và bí
mật ghi lại hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân. Hệ thống điều khiển
máy ly tâm của Iran do hãng Siemens của Đức chế tạo.
Ngày
19-10-2011, tờ New York Times cho biết, các nhà nghiên cứu phát hiện một
loại virus mới tên là Duqu, có ý đồ đánh cắp những thông tin cần thiết
để thực hiện một cuộc tấn công kế tiếp, nhưng mục đích hoàn toàn khác
với virus Stuxnet.

4.1. Đánh bom giết chết nhà khoa học Mostafa Ahmed-Roshan
 Ngày
11-1-2012, vào buổi sáng, một người đi xe moto đã gắn một quả bom nam
châm vào chiếc xe Peugeot 405, chiếc xe phát nổ làm chết tại chỗ nhà
khoa học hạt nhân Mostafa Ahmed-Roshan, 2 người khác trong xe là vợ và
con gái bị thương nặng. Tài xế chết sau đó tại bịnh viện.
Ahmed-Roshan,
32 tuổi, cũng là giáo sư trường đại học Allameh Tabatabai, hiện là phó
giám đốc trung tâm Natanz, làm giàu chất Uranium, một cơ sở rất quan
trọng đối với ngành công nghiệp hạt nhân của Iran.
Trung tâm Natanz hiện có 8,000 máy ly tâm làm giàu Uranium, mỗi máy cao 1.8m, đường kính 10cm.
Sau cái chết của Roshan, chính quyền Iran khẳng định Hoa Kỳ và Do Thái đứng sau hành động giết người nầy.
Ngoại
trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton tuyên bố: “Tôi khẳng định rằng, Hoa
Kỳ không can dự vào bất cứ hành động khủng bố nào trong nước Iran cả”.
Thủ tướng Do Thái, Shimon Peres cho biết: “Theo hiểu biết của tôi, thì Do Thái không can dự vào việc tấn công nầy”.

Phát
ngôn viên bộ quốc phòng Do Thái phát biểu: “Tôi không biết ai ra tay
đối với nhà khoa học Iran nầy, nhưng chắc chắn là tôi không có một giọt
nước mắt nào cả”.
Thế nhưng trên trang Blog của mình, ông Richard
Silverstein, một chuyên viên phụ trách về các vấn đề an ninh Iran, viết
như sau: “Theo nguồn tin đáng tin cậy của tôi, thì Mossad và tổ chức MEK
đã thực hiện cuộc tấn công giết người nầy”.  MEK (viết tắt từ một tên
khác là Mojahedin-e-Khalq Organization) một tổ chức chống chính quyền
Iran là Thánh Chiến Nhân dân (People’s Mujahideen).

4.2. Cái chết của nhà khoa học Darioush Rezaeinejad
Ngày
23-7-2011, khoa học gia hạt nhân Iran, Darioush Rezaeinejad, 45 tuổi,
bị bắn chết trong khi ông ta và vợ đậu xe chờ rước đứa con ở trường mẫu
giáo. Hung thủ đi xe mô tô đã vọt mất liền sau đó.
Cũng như thường lệ, chính quyền Iran cáo buộc Do Thái và Hoa Kỳ đứng sau vụ ám sát đó.

4.3. Tình báo Mossad và phiến quân MEK đứng sau các vụ ám sát ở Iran
Ngày
10-2-2012, lần đầu tiên các quan chức Hoa Kỳ xác nhận, những vụ tấn
công ám sát các nhà khoa học hạt nhân Iran, là do nhóm phiến quân MEK
thực hiện. Nhóm nầy được tình báo Mossad tài trợ, huấn luyện và trang bị
vũ khí.
Kể từ năm 2007 đến nay, có ít nhất là 5 khoa học gia hạt nhân Iran bị ám sát dưới nhiều hình thức.
Chính
quyền Obama biết rõ chiến dịch nầy, nhưng khẳng định không nhúng tay
vào. Ngoài các vụ ám sát, Mossad và MEK cũng liên quan đến một vụ nổ
long trời lở đất vào ngày 12-11-2011, phá hủy trung tâm nghiên cứu phát
triển hỏa tiễn ở Bin Kaneh, làm thiệt mạng thiếu tướng chỉ huy trưởng
trung tâm và hơn 10 khoa học gia khác. Iran bị một cú thiệt hại quá nặng
nề.

4.4. Lời thú tội của một thành viên MEK
“Tôi tên là
Majid Jamali Fashi. Cách đây 3 năm, tôi tiếp xúc lần đầu tiên với Mossad
tại Istanbul, Thổ Nhỉ Kỳ. Tôi được yêu cầu cung cấp tin tức về một số
nơi ở Tehran. Tôi đã viết ra 30 trang, và đến giao cho toà lãnh sự Do
Thái ở Istanbul. Sau đó, tôi được huấn luyện ám sát, tập dượt bắn súng,
chạy trốn, dùng quần áo và mỹ phẩm để hoá trang. Trở về Tehran, tôi được
cấp bom, súng đạn, 2 điện thoại vệ tinh và một chiếc Honda 125 phân
khối.

4.5. Iran bại trận trong cuộc chiến gián điệp
Kể từ
năm 2005, cơ quan phản gián Iran Oghab-2 đã có nhiệm vụ bảo vệ bí mật
tất cả những hoạt động có liên quan đến chương trình hạt nhân của nước
nầy, bao gồm tên tuổi các nhà khoa học, các cơ sở, kế hoạch chương
trình…Thế nhưng Oghab-2 đã thất bại trong nhiệm vụ.
Ngày 12-2-2010,
qua 2 chiếc điện thoại, tôi nhận lịnh đánh bom giết khoa học gia Ali
Mohammadi. Tôi dựng chiếc Honda có gắn bom, sát bên cạnh chiếc xe của
Ali Mohammadi, khi ông từ trong nhà ra đến chiếc xe, thì tôi dùng remote
control kích nổ. Tôi được thưởng trước 120,000 USD”.
Thanh niên tên Majid Jamali Fasha bị kết án tử hình ở Iran.

-
 Tháng 3 năm 2007, thiếu tướng Ali Reza Asgari, thứ trưởng quốc phòng,
lãnh tụ Vệ binh Cách mạng, đã đào thoát sang tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Đó là,
trong chuyến công tác đến Damascus, Syria, ông để vợ ở lại đó, rồi thuê
xe chạy đến biên giới, đưa hối lộ 1,500USD cho biên phòng để vào
Istanbul, Thổ Nhỉ Kỳ vào ngày 7-2-2007, mà không cần giấy thông hành.
Báo cáo cho biết, đã có 2 người đặt phòng cho ông để ở 3 đêm tại khách
sạn Ceylan Hotel. Đến ngày 9-2 thì ông biến mất. Tờ Sunday Times cho
biết, tướng Asgari là một kho tàng quý báu của tình báo Hoa Kỳ. Iran cho
rằng Asgari bị bắt cóc và bị giết, họ đã khai tử ông. Hoa Kỳ cũng thừa
cơ hội, khai sanh cho Asgari, với cái tên và lý lịch khác.
- Cũng trong năm 2007, khoa học gia nguyên tử Ardeshir Hassanpour bị chết một cách bí ẩn mà không tìm ra thủ phạm.
-
Kế đến, tổng thống Obama công khai tuyên bố một cơ sở bí mật về hạt
nhân ở Fordo. Thế là bí mật của Iran đã bật mí trước công luận.
-
 Hoa Kỳ còn biết được biện pháp bảo vệ bí mật, là Iran đã chuyển 75%
chương trình làm giàu Uranium ở cấp thấp (Low Enriched Uranium-LEU) sang
Nga, rồi sau đó đưa sang Pháp để chuyển đổi thành năng lượng hạt nhân.
Như vậy, xem như Iran bị thảm bại trên mặt trận gián điệp với Do Thái và Hoa Kỳ.

 


5. Mossad đuổi tận diệt tuyệt thủ phạm vụ thảm sát Munich 1972
5.1. Cuộc thảm sát ở Munich năm 1972

Cuộc
thảm sát xảy ra trong thời gian diễn ra Thế Vận Hội Mùa Hè năm 1972 ở
Munich, Tây Đức, khi các lực sĩ Do Thái bị tấn công bởi Tổ Chức Tháng
Chín Đen (Black September Organization-BSO), một nhóm vũ trang thuộc tổ
chức Fatah của Yasser Arafat. Kết quả, 11 lực sĩ Do Thái bị giết.
Ngày
5-9-1972, lúc 4g 30 sáng, 5 tên khủng bố Palestine trùm mặt nạ đen, leo
qua hàng rào dây xích, xâm nhập vào Làng Thế Vận. Nhiều người trông
thấy nhưng họ cho đó là việc bình thường, vì nhiều lực sĩ ra vào theo
cách đó. Vũ khí được dấu trong các túi lực sĩ. 3 người bên trong đến
nhập bọn. Họ dùng chìa khoá đánh cắp được, xâm nhập vào 2 phòng của các
lực sĩ Do Thái.

Trọng tài môn đô vật Do Thái, Yossef Gutfreund,
nghe tiếng động ngoài cửa bèn bước ra xem. Trước mặt ông là một người
trùm mặt nạ đen, tay cầm súng, ông la lớn “Anh kia! Ra khỏi đây ngay!”,
miệng la tay vớ cặp tạ nặng 135kg ném về phía tên khủng bố. Thấy có
động, trưởng đoàn lực sĩ Do Thái Tuvia Sokolovsky, lực sĩ chạy bộ Shaul
Ladany, 4 lực sĩ khác và 2 bác sĩ nỗ lực chạy trốn, nhưng tất cả bị
khống chế bởi những họng súng của những tên Palestine.

Trên đường
di chuyển từ phòng nầy qua phòng khác, lực sĩ đô vật Moshe Weinberg
đánh bất tĩnh và đâm chết một tên, trước khi bị bắn chết. Đồng thời, lực
sĩ cử tạ Yossef Romano, 31 tuổi, tấn công làm bị thương một tên khác
trước khi bị bắn chết. Cuối cùng, những tên khủng bố đã chế ngự được 9
lực sĩ Do Thái và bắt làm con tin.

Đến 9giờ 30 sáng, nhóm khủng bố tự nhận là thành viên của Tổ chức Tháng Chín Đen và đưa ra những yêu sách để trao đổi con tin:
- Nhà nước Do Thái phải thả 234 tù nhân người Palestine.
- Chính phủ Đức phải cung cấp phương tiện và bảo đảm an toàn để họ rời Tây Đức.
Sau những giờ thương lượng căng thẳng, nhóm khủng bố chấp nhận một kế hoạch:
-
Nhóm khủng bố được trực thăng đưa đến phi trường nằm trong căn cứ NATO ở
Firstenfeldbruck, ở đó, một phi cơ sẽ đưa họ đến Cairo, thủ đô Ai Cập.
- Những con tin Do Thái sẽ được xe bus đưa đến 2 chiếc trực thăng, để đến căn cứ NATO.
Trong
khi di chuyển, an ninh Tây Đức mới phát giác ra là, đã có 8 tên khủng
bố, chớ không phải 5 tên mà theo kế hoạch, các tay súng bắn tỉa phải
triệt hạ tại phi trường. Như vậy, 3 tên nầy  không phải là mục tiêu
triệt hạ, đó là đầu mối gây ra cuộc thảm sát.
Lúc 10giờ tối, tại căn cứ NATO, các xạ thủ bắn tỉa đã hạ 5 tên khủng bố theo kế hoạch.
Lúc
11giờ tối, khi nghe tin 5 tên khủng bố bị bắn hạ, các cơ quan truyền
thông loan tin nhầm lẫn, là các con tin Do Thái đã được cứu thoát.
Khoảng
1 giờ sau, 3 tên khủng bố còn lại dùng lựu đạn cho nổ một chiếc trực
thăng, 9 lực sĩ ở chiếc trực thăng còn lại, bị lôi ra bắn chết từng
người.
3 giờ sáng, phóng viên Thế Vận Hội của đài ABC, Jim McKay, mắt ứa lệ, tuyên bố “Họ chết tất cả rồi”.
3
tên khủng bố còn lại bị bắt giữ, thế nhưng sự việc chưa kết thúc. Đó là
ngày 29-10-1972, một nhóm Palestine lại cướp chiếc phi cơ của hảng hàng
không Đức, Lufthansa, và đòi chính phủ Đức phải thả 3 tên khủng bố. Đức
thả 3 người trước sự giận dữ của người Do Thái.

5.2. Chiến dịch Cơn Thịnh Nộ Của Thượng Đế (Operation Wrath of God)

 Sau
vụ 11 lực sĩ Do Thái bị giết, nữ Thủ tướng Golda Meir ra lịnh cho
Mossad truy lùng, lập Danh Sách Tìm Diệt để tiêu diệt tất cả những người
trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến vụ thảm sát, không chừa một móng
nào cả.
Tướng Aharon Yariv, cố vấn của thủ tướng về chống khủng bố,
cùng với bộ trưởng quốc phòng Moshe Dayan (Tướng Độc Nhản) và giám đốc
Mossad là Zvi Zamir thành lập Chiến dịch Cơn Thịnh Nộ Của Thượng Đế
(Operation Wrath of God) để tiêu diệt tất cả các thủ phạm.

5.2.1. Chiến dịch Biệt đội Lưỡi Lê (Operation Bayonet)

Biệt đội Lưỡi Lê có nhiệm vụ truy tìm, lập danh sách để triệt hạ tất cả những người có liên hệ đến vụ thảm sát Munich 1972.
Công
việc đầu tiên là lập danh sách tìm diệt. Với sự trợ giúp của những
người Palestine trong Tổ Chức Giải Phóng Palestine (Palestine Liberation
Organization-PLO) nằm vùng, làm việc cho Mossad, và các tổ chức gián
điệp đồng minh, một danh sách được xem như sổ đoạn trường được thành
lập.

5.2.2. Các thủ phạm đền tội

Nạn nhân đầu tiên là Abdel Wael Zwaiter, đại diện cho PLO ở Ý.
Ngày
16-10-1972, hai nhân viên Biệt đội Lưỡi Lê, phục kích tại nhà riêng của
Zwaiter, đã nã 11 phát vào thành viên Tháng Chín Đen nầy. Mỗi phát đạn
là để báo thù cho một lực sĩ trong 11 người bị sát hại ở Olympic Munich
1972.
Thủ phạm thứ hai đền tội. Tiến sĩ Mahmoud Hamshari, đại diện Palestine ở Paris, lãnh tụ Tháng Chín Đen ở Pháp.
Ngày
8-12-1972, một điệp viên Mossad giả danh là một nhà báo gọi điện thoại
về nhà riêng của đương sự, khi Hamshari nhấc máy lên, chưa kịp nói Allo
thì nổ tung, đầu nát như tương, do một quả bom cài trước được kích hoạt.
Vụ
thanh toán thứ ba xảy ra ở London. Một thành viên Palestine có tên
trong danh sách tìm diệt đã bị ai đó đứng sau lưng, xô anh ta xuống
đường rầy xe điện chưa kịp ngừng ở trạm chính trong giờ cao điểm, hành
khách đông đảo đang đứng chờ để lên xe.
Vụ ám sát thứ tư.
Đêm
24-1-1973, Hussein al-Bashir, người Jordan, lãnh tụ Tháng Chín Đen ở
Cyprus, (đảo Síp), khi vói tay tắt ngọn đèn ngủ, thì quả bom cài sẵn
dưới giường phát nổ, làm banh xác anh ta và phá hỏng cả căn phòng trong
khách sạn Nicosca, Cyprus. Thủ phạm không để lại dấu vết nào cả, và
đương nhiên là Do Thái phủ nhận việc ám sát đó.
Sau những vụ ám sát,
người Palestine đề phòng và bảo vệ cẩn mật hơn, nên Mossad thay đổi
chiến thuật. Thế là Chiến Dịch Mùa Xuân của Tuổi Trẻ (Operation Spring
of Youth) ra đời.
Chiến dịch Mùa Xuân của Tuổi Trẻ cũng nằm trong chiến dịch lớn là Cơn Thịnh Nộ của Thượng Đế.
Mục
tiêu là 3 thành viên cấp cao của Tháng Chín Đen sống trong một toà nhà 6
tầng được canh gác chặt chẽ ở thủ đô Beirut của Li Băng.
Đêm
9-4-1973, 3 lính cảm tử Do Thái là Sayeret Matkal, Shayetet 13 và
Tzanhanim, từ một chiến hạm trang bị hoả tiễn đậu ngoài khơi bờ biển Li
Băng, 3 cảm tử dùng thuyền cao su vào bờ. Trên bờ, đã có những điệp viên
Mossad chờ sẵn, với những chiếc xe đã thuê ngày hôm trước, chở tất cả
vào thủ đô Beirut. Những lính cảm tử mặc thường phục và cũng có người
hoá trang giả làm phụ nữ.
Ở Beirut, điệp viên Mossad và lính cảm tử
tấn công vào toà nhà 6 tầng để đưa 3 thành viên cao cấp Palestine đi đầu
thai, đó là Muhammad Youssef al-Najjar và vợ, Kamal Adwan và Kamal
Nasser.
Quân Do Thái gặp sự kháng cự mãnh liệt, nhưng họ cũng hoàn
thành nhiệm vụ, và còn phá hủy một trạm xăng và một cơ sở sản xuất vũ
khí của địch. Trong trận đụng độ, 2 cảnh sát Li Băng, 1 công dân Ý và
khoảng 10 người Palestine bị thiệt mạng. Phía Do Thái có 2 người hy
sinh, những người khác rút lui an toàn.
Ngày 11-4-1973, một thành
viên Tháng Chín Đen trên đường đến Cyprus để thay thế Hussein al-Bashir
đã bị ám sát trước đó, anh ta bị giết bởi một quả bom được cài trong
phòng một khách sạn ở Athens, Hy Lạp.
Kể từ 28-6-1973 đến 21-10-1986,
đã có 10 thành viên Tháng Chín Đen có tên trong sổ đoạn trường bị triệt
hạ bởi lệnh hành quyết của Chiến Dịch Cơn Thịnh Nộ của Thượng Đế.

5.2.3. Cuộc săn lùng gay go tên Hoàng Tử Đỏ Ali Hassan Salameh

Ali
Hassan Salameh (1940 - 22-1-1979) là một trong những người điều khiển
cuộc bắt cóc các lực sĩ Do Thái ở Munich năm 1972. Bí danh là Abu
Hassan.
1) Những thất bại trong vụ hạ sát Salameh
Sau một năm truy lùng, Mossad nhận được tin Salameh đang sống tại một thị trấn nhỏ tên Lillehammer của Na Uy.
Ngày
21-7-1973, toán ám sát Mossad đã bắn chết Ahmed Bouchiki, một người Ma
Rốc làm bồi bàn, không có liên hệ gì tới vụ thảm sát và với Tháng Chín
Đen cả. Sự giết lầm người do điềm chỉ viên nhận diện sai, và 6 nhân viên
Mossad bị Na Uy bắt giữ, riêng người chỉ huy tên Michael Harari đã tìm
các trốn thoát, 5 người còn lại bị tống giam về tội giết người, và đến
năm 1975 mới được thả về Do Thái.
Vụ Mossad giết lầm người làm cho
thế giới phẩn nộ và lên án Do Thái, nên thủ tướng Golda Meir ra lịnh hủy
bỏ chiến dịch Wrath of God, tuy nhiên, Mossad vẫn tiếp tục truy lùng
Salameh.
Vào tháng 1 năm 1974, được tin Salameh sẽ đến Thụy Sĩ để gặp
thủ lãnh Yasser Arafat của PLO tại một nhà thờ vào ngày 12-1-1974. Gián
điệp Mossad triển khai phương án đến Thuỵ Sĩ. Hai sát thủ Mossad đột
nhập vào nhà thờ trong lúc 3 người Á Rập đang hội họp. Một tên Á Rập rút
súng nhưng tức khắc bị bắn hạ tất cả. Lục soát nhà thờ, không thấy
Salameh đâu cả, nên toán Mossad liền tẩu thoát.
Một lần nữa, gián điệp Do Thái lại thất bại trong việc tìm giết thủ phạm Salameh.
Sau
đó không lâu, 3 điệp viên Mossad bay đến Luân Đôn, Anh quốc, để gặp một
“người đưa tin”, hứa sẽ cung cấp tin tức về Salameh, nhưng người đưa
tin không đến, thế là các  sát thủ Do Thái biết rằng họ đã bị lộ. Tình
cờ, một thiếu nữ tuyệt sắc, khêu gợi, đã quyến rủ được một trong 3 điệp
viên Mossad đến khách sạn Europa với cô, và thình lình anh ta bị bắn hạ
tại phòng ngủ của khách sạn. Nguồn tin địa phương cho biết, đó là một nữ
sát thủ chuyên nghiệp, giết mướn độc lập. Họ không tìm ra manh mối của
người đã thuê nữ sát thủ đã giết đồng đội. Sau đó, thiếu nữ bị giết chết
gần nhà của cô.
Toán Mossad nầy bị kỷ luật, vì không tuân lịnh ngừng chiến dịch, và hành động ngoài mục đích.
Lại thêm một lần thất bại nữa.
Mãi đến 5 năm sau, dưới thời thủ tướng Menachem Begin của Do Thái, chiến dịch tìm diệt Salameh lại tiếp tục.
Thật
ra, Salameh đã được CIA xử dụng như là người liên lạc giữa Hoa Kỳ và Tổ
Chức Giải Phóng Palestine (PLO), nên được CIA bảo vệ từ năm 1970 cho
đến ngày chết, 22-1-1979.
Ali Hassan Salameh thuộc gia đình giàu có,
nhiều quyền lực, xài tiền rộng rãi về gái đẹp và chơi xe hơi thể thao
đắt tiền, được gọi là Hoàng Tử Đỏ (Red Prince)
Salameh cưới vợ, vốn
là một hoa hậu hoàn vũ của năm 1971. Đi hưởng tuần trăng mật ở Hawaii,
rồi đến sống tại khu Disneyland, California.
Đến tháng 8 năm 1978, khi vợ có thai, Salameh trở về Beirut, Li Băng.

2) Mỹ nhân kế với cái bẫy trên giường

Mossad
phải mất 6 năm mới tìm ra được tung tích của một trong những tên đầu xỏ
của vụ thảm sát Olympic Munich 1972. Thế là nữ điệp viên Penelope được
cử tham gia công tác. Nữ điệp viên Do Thái được tuyển chọn rất kỹ, có
thể nói là “người giỏi nhất trong vạn người”.
Các nữ đặc vụ phải
thông thạo tiếng Anh, tiếng Á Rập và các thứ tiếng Âu châu. Phải trải
qua những giai đoạn huấn luyện đầy gian khổ, phải nhuần nhuyễn kỹ năng
gián điệp như theo dõi, chống và cắt bám đuôi, ăn trộm tài liệu, nghe
lén, xử dụng các loại vũ khí, biết lái các loại xe, đội lốt, giả dạng,
nằm vùng…và hơn thế nữa, phải rất xinh đẹp và có khả năng kéo kẻ thù lên
giường.
Penelope là biệt danh của thiếu nữ tên Erika Mary Chambers,
sinh ngày 6-7-1952 tại thành phố Liverpool, Anh quốc. Tốt nghiệp đại học
năm 1974.
Penelope đến Beirut với thông hành mang quốc tịch Anh, lý
lịch tốt nghiệp đại học Southampton, làm việc cho một tổ chức từ thiện
có trụ sở tại Luân Đôn, đến công tác giúp đở những trẻ em trong trại tỵ
nạn của người Palestine, nơi mà Ali Hassan Salameh thường đến ủy lạo và
giúp đở trẻ em trong trại.
Penelope lân la làm quen với Salameh. Và
điều cuối cùng đã đến. Mặc dù đã có vợ là hoa hậu hoàn vũ, nhưng vốn hảo
ngọt, nên Salameh đã bập Penelope.
Cũng có vài lần đang vui vẻ mặn
nồng với nhau, Penelope định ra tay, nhưng không thành. Sau một thời
gian khắng khít, Penelope nắm được thói quen của kẻ thù, đó là thói quen
thường hay đến thăm nhà bà già vợ vào những chiều thứ bảy.
Vào lúc
3giờ 35 chiều ngày 22-1-1979, đoàn xe 2 chiếc Chevrolet wagon trên đó có
Salameh và 4 cận vệ, trên đường đến dự tiệc sinh nhật mẹ vợ ở khu phố
Ghobari. Khi đoàn xe vừa đến chiếc Wokswagen màu đỏ đậu bên đường, chứa
100 kg chất nổ plastic, thì ở tầng lầu 8 của căn hộ, Penelope kích hoạt
chất nổ bằng remote control, tiếng nổ long trời lở đất làm cho 4 cận vệ
chết ngay tại chỗ, Salameh bị thương nặng và chết ở bịnh viện một tháng
sau đó. Tội nghiệp cho 4 người đi đường vô tôi, không có tên trong sổ
đoạn trường, phải chết oan.
Penelope và 14 người của Mossad biến mất,
không để lại một dấu vết nào. Đó là lý do để cho Mossad mạnh miệng chối
leo lẻo về hành động ám sát.
Đối với kẻ thù, khi đã bị đưa vào danh
sách tìm diệt, thì dù cho có chạy trốn đằng trời cũng khó thoát khỏi bàn
tay của Mossad. Như trường hợp của tên đồ tể Đức Quốc Xã Adfolf
Eichmann, đã tham gia vào vụ tàn sát 6 triệu người Do Thái trong các
trại tập trung. Sau khi Đức đầu hàng, Eichmann trốn sang Áo, rồi trở về
Đức, sang Ý và cuối cùng đến Argentina, Nam Mỹ.
Tình báo Do Thái vẫn
kiên trì truy lùng suốt 10 năm, xem qua hàng trăm ngàn tài liệu và cuối
cùng phát hiện hắn sống ở Argentina với cái tên mới là Ricardo Klement.
Ngày 11-5-1960 Do Thái bắt cóc đưa về Tel Aviv. Sau 14 tuần lễ xét xử,
với 1,500 tài liệu và hơn 100 nhân chứng, vài chục hồ sơ từ 16 quốc gia
gởi đến. Bị kết án tử hình và bị treo cổ lúc 12 giờ đêm ngày 31-5-1962.

6. Kết

Giám đốc tình báo Mossad, Tamir Pardo đến Washington ngày 31-1-2012 để thảo luận về khả năng tấn công cơ sở hạt nhân của Iran
Tình báo Mossad đã thực sự làm trở ngại chương trình hạt nhân của Iran, đồng thời cũng gây nhiều thiệt hại cho nước nầy.



 


Nổ
lực làm giàu chất Uranium của Iran khiến cho Hoa Kỳ, Âu châu và Do Thái
lo ngại. Cơ quan Năng Lượng và  Nguyên Tử Quốc Tế (IAEA=International
Atomic Energy Agency) tuyên bố là họ đã nắm trong tay những bằng chứng
 cho thấy Iran đã tiến hành những thử nghiệm liên quan đến việc phát
triển một thiết bị, kích nổ hạt nhân xử dụng trong vũ khí nguyên tử.
Tin tức của IAEA khiến cho Hoa Kỳ và Liên Âu siết chặt sự trừng phạt Iran, chủ yếu là việc bán dầu khí và phong tỏa tài chánh.
Cuộc
đọ sức giữa Iran và Hoa Kỳ đã đến giai đoạn công khai. Tổng thống Obama
mở một chiến dịch rộng lớn, siết chặt gọng kềm trừng phạt Iran.
Ở Liên Âu, tổng thống Pháp, Nicolas Sarkozy, chủ trì, ráo riết vận động một cuộc bỏ phiếu tăng cường biện pháp trừng phạt Iran.

châu Á, Nhật, Nam Hàn, Ấn Độ đang tìm nguồn dầu khác ở các nước Arab
Saudi và các quốc gia dầu hỏa trong vùng. Hoa Kỳ không hy vọng thuyết
phục được Trung Cộng, nước nhập cảng 1/3 sản lượng dầu, mỗi ngày 2.2
triệu thùng từ Iran. Tuy nhiên, Trung Cộng cũng đang tìm nguồn dầu khác,
vì đã có sự tranh chấp với Iran về một hợp đồng dầu khí.
Tổng thống
Obama đã ký một quyết định ngăn chặn những chuyển khoản tài chánh quốc
tế đối với Iran. Quyết định nầy làm kẹt 5 tỷ đô la của Iran tại các ngân
hàng ở Nam Hàn.
Các nhà máy lọc dầu Iran vẫn hoạt động tốt, nhưng
gặp khó khăn trong việc bán dầu và nhất là việc thu tiền bán dầu từ các
ngân hàng bị tác động bởi quyết định cấm vận tài chánh của Hoa Kỳ.
Vừa qua, tổng thống Mahmoud Ahmadinejad sang Cuba, có lẻ để học hỏi kinh nghiệm chống cấm vận mà Cuba đã chịu từ bấy lâu nay.

 Trúc Giang