Tuesday, June 14, 2011

ĐƠN VỊ BIỆT KÍCH 101


ĐƠN VỊ BIỆT KÍCH 101
I. LỜI GIỚI THIỆU
        Đơn vị 101 là một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt trong quân đội Do Thái, được thành lập và chỉ huy bởi danh tướng (sau này) Ariel Sharon theo lệnh của Thủ Tướng Ben Gurion trong tháng Tám năm 1953. Đơn vị này được thành lập để đối phó với phong trào “Trung Thành Với Thượng Đế” (Fedayeen) của người Palestine thường bất ngờ tấn công Do Thái mà quân đội không ngăn chận được.          
        Đơn vị sát nhập vào tiểu đoàn Nhẩy Dù 890 trong tháng Giêng năm 1954, lý do giết hơn một chục thường dân không võ trang trong trận tấn công làng Qibya, vụ này gọi là “Cuộc Thảm Sát Qibya” (Qibya Massacre). Bên cạnh đơn vị Biệt Kích Sayeret Matkal, là hai đơn vị nổi tiếng trong Lục Quân Do Thái trên cả hai chiến trường: trận điạ chiến và chiến tranh ngoại lệ.

II. KHỞI THỦY
        Sau trận chiến Do Thái - Ả Rập 1948 (Trận Chiến Độc Lập), quốc gia mới được độc lập Do Thái thường xuyên bị du kích quân Ả Rập xâm nhập quấy phá, cướp của, giết người. Sau đó vấn đề trở nên nghiêm trọng, quân cướp Ả Rập được các quốc gia Ả Rập huấn luyện, tổ chức thành đội ngũ để mở các trận tấn công lớn từ năm 1954 trở về sau. Theo báo cáo của chính quyền Do Thái, từ năm 1949 đến năm 1956, người Ả Rập xung quanh đã tấn công, xâm nhập vào đất Do Thái khoảng 9000 lần gây thương vong cho hàng trăm thường dân Do Thái.
        Trong những năm đó quân đội Do Thái chưa có kinh nghiệm chống lại những trận tấn công, đột kích bất ngờ. Đơn vị Palmach (tiền thân của Lực Lượng Đặc Biệt Do Thái) là đơn vị nổi tiếng nhất trong trận chiến 1948 đã bị giải tán theo lệnh của Thủ Tướng Ben Gurion. Nhiều sĩ quan đã giải ngũ trở về sống với gia đình, quốc gia Do Thái từ ngày lập quốc đã phải trải qua chiến tranh, lâm vào cảnh khó khăn trên phương diện kinh tế. Vấn đề này đưa đến kết qủa, quân đội Do Thái vẫn còn yếu kém, không đủ khả năng “Tấn Công” quân thù Ả Rập.
        “Người Palestine phải học những bài học rằng họ sẽ phải trả giá cao cho sinh mạng người Do Thái”. Đó là lời nói chuyện giữa Thủ Tướng Ben Gurion và Ariel Sharon, người thành lập và cấp chỉ huy đầu tiên của đơn vị 101. Ông ta sau này trở nên một vị tướng lãnh lừng danh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực, Bộ Trưởng Quốc Phòng và Thủ Tướng của Do Thái.
        Để đáp ứng lại đám cướp hung hãn Ả Rập, quân đội Do Thái thành lập đơn vị 30 trong năm 1951. Đơn vị 30 là một đơn vị “bí mật” đặt dưới quyền chỉ huy Bộ Tư Lệnh Phương Nam (Southern Command). Nhiệm vụ dành cho đơn vị này là tấn công “trả đũa” bằng những toán biệt kích nhỏ được tuyển chọn, huấn luyện kỹ càng. Tuy nhiên sĩ quan đơn vị 30 không đủ khả năng hoặc không được huấn luyện ở cấp cao hơn nên không làm tròn nhiệm vụ và đơn vị 30 bị giải tán năm 1952.

III. ĐƠN VỊ 101
        Một trong những trận đánh cuối cùng của Sharon trước khi giã từ quân đội năm 1952 là cuộc hành quân Bin Nun Alef, tấn công qua biên giới Jordan. Trong trận đó, ông ta bị thương nặng, sau đó đề nghị lên bộ Tổng Tham Mưu thành lập một đơn vị nhỏ, tinh nhuệ, huấn luyện kỹ thuật tác chiến biệt kích cho các trận đột kích trả đũa. Quân đội Do Thái đã nhiều lần tấn công trả đũa không thành công, Thủ Tướng Do Thái Ben Gurion ra lệnh cho Tổng Tham Mưu Trưởng Mordechai Maklef một “Lực Lượng Đặc Biệt” trong mùa hè năm 1953. Đó là đơn vị Biệt Kích đầu tiên của Do Thái và “quân nhân trừ bị” Ariel Sharon được gọi trở lại quân đội.
        Sharon được gắn cấp bậc Thiếu Tá trao cho nhiệm vụ chỉ huy đơn vị “đặc biệt” cấp đại đội mới thành lập cùng với viên phụ tá Shlomo Baum. Đơn vị có 50 quân nhân, đa số tình nguyện từ đơn vị Nhẩy Dù Tzanhanim và đơn vị 30 trước đó. Các quân nhân trong đơn vị được trang bị đặc biệt cho nhiệm vụ tấn công trả đũa dọc theo biên giới Do Thái. Căn bản của đơn vị này là những toán biệt kích nhỏ, trang bị nhẹ, dễ di chuyển, xâm nhập, tấn công trong đất địch. Quan niệm này vẫn còn được xử dụng (làm nền tảng) cho các đơn vị Biệt Kích trên thế giới ngày nay.   
        Đơn vị mới thành lập bắt đầu chương trình huấn luyện ngày đêm rất cam go. Trong nhiều bài học chiến thuật, họ băng qua biên giới thực tập ngay trên đất địch, lấy kinh nghiệm chạm địch bất ngờ. Phần vũ khí, chất nổ được huấn luyện trong căn cứ của đơn vị, ngôi làng Ả Rập Sataf đã bỏ hoang nơi hướng tây thành phố Jerusalem. Đơn vị “đặc biệt” trên hai phương diện:
        . Là đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt đầu tiên trong quân lực Do Thái, được tổ chức từ đầu không như các đơn vị “biến chế” chẳng hạn như trung đội Trinh Sát lữ đoàn Golani (lấy quân tình nguyện từ trong lữ đoàn ra thành lập).
        . Chưa một đơn vị nào nhận lệnh trực tiếp từ Bộ Tổng Tham Mưu, Phòng Hành Quân Đặc Biệt (Matkal). Tất cả các đơn vị khác trong quân lực Do Thái nhận lệnh từ các vị tư lệnh Quân Đoàn, Chiến Trường.
        Lúc ban đầu các sĩ quan trong đơn vị Nhẩy Dù (T'zanhanim Hebrew: הצנחנים‎, Paratroopers) chống lại việc thành lập Đơn Vị 101. Lý do không muốn có đơn vị khác “nổi hơn” trong nhiệm vụ trả đũa địch quân. Trước khi đơn vị 101 được thành lập, quân Nhẩy Dù là đơn vị duy nhất có khả năng này. Một trong những cấp chỉ huy trong đơn vị này là Meir Har Zion được thăng cấp tại mặt trận từ hàng binh sĩ lên sĩ quan qua những chiến công. Mặc dầu các trận tấn công, đột kích của đơn vị 101 rất thành công, nhưng cũng không bổ xung kịp sụ tổn thất của đơn vị.
        Đơn vị 101 làm cho đám cướp Ả Rập bớt “hung hăng”, số lượng tấn công giảm thiểu đi rất nhiều và đơn vị 101 đã chu toàn nhiệm vụ trao phó. Việc thành lập đơn vị 101 đã để lại dấu ấn sâu đậm trong quân sử Lực Lượng Đặc Biệt Do Thái.

IV. CÁC CUỘC HÀNH QUÂN ĐÁNG GHI NHỚ
        . Trại Tỵ Nạn Palestine:
        Theo lời Yoav Gelber, sau một tháng huấn luyện, một toán biệt kích 101 xâm nhập vào dải Gaza trong phần thực tập. Họ tấn công đám cướp Ả Rập nơi trại tỵ nạn Al Burej của người Palestine trong đêm 28 rạng 29 tháng Tám năm 1953, gây tổn thất cho đám cướp khoảng 30 chết, hơn một chục tên khác bị thương, trước khi rút lui về đất Do Thái. Theo lời Azmi Bishara một học giả người Do Thái gốc Palestine, trận tấn công bất ngờ gây thương vong 43 thường dân Palestine trong đó có bẩy phụ nữ và 22 người khác bị thương. (Azmi Bishara làm Dân Biểu trong Quốc Hội (Knesset), bỏ trốn khỏi Do Thái năm 2007 bị nghi ngờ trao tài liệu cho Palestine).
        Quân biệt kích 101 chỉ có hai người bị thương. Trận “thực tập” (live exercise) bị các quan sát viên quốc tế lên án, phê phán “Tự do giết người tập thể” (mass murder). Một vị Bộ Trưởng trong nội các chính quyền Do Thái cũng lên tiếng chỉ trích nặng nề.
        . Cuộc Thảm Sát Qibya (Qibya Massacre):
        Hai tháng sau, đơn vị 101 tham dự trận tấn công làng Ả Rập Qibya nơi phiá bắc khu vực West Bank, phần đất thuộc về Jordan. Trận tấn công này, quân đội Do Thái gây thiệt hại nặng cho đơn vị Lê Dương Ả Rập (Arab Legion) đóng trong làng Qibya. Phiá thường dân Ả Rập có 42 người thiệt mạng, 15 người khác bị thương. Theo sự điều tra của Liên Hiệp Quốc, các xác chết bị trúng đạn đầy người, chết gần cửa nhà và nhiều vết đạn trên cánh cửa. Điều đó chứng tỏ các nạn nhân đang ở trong nhà của họ cho đến khi căn nhà bị cho nổ tung.
        Chuyện thường dân bị thiệt mạng, ngôi làng Qibya bị tàn phá gây xúc động trên thế giới, yêu cầu chính quyền Do Thái trả lời vụ “thảm sát”. Chính quyền Do Thái chối cãi, phủ nhận sự kiện, cho rằng người dân Do Thái trong những làng chiến đấu (Kibbutz) gần đó tấn công trả thù. Uri Avnery, chủ bút người sáng lập tạp chí Haolam Hazeh nói rằng, ông ta bị đánh gẫy cả hai bàn tay vì chỉ trích cuộc thảm sát làng Qibya trên tờ báo của ông ta.
        Các tân binh tình nguyện phục vụ trong đơn vị 101 phải trải qua giai đoạn huấn luyện ngày đêm, thử thách cam go. Những bài học di hành, định hướng, điạ hình thường băng qua biên giới Do Thái với các nước láng giềng Ả Rập. Đôi khi toán biệt kích “khóa sinh” 101 đụng phải toán tuần tiểu của địch hoặc dân chúng Ả Rập. Điều này đối với cấp chỉ huy đơn vị 101 là chuyện thường... điều quan trọng trong việc huấn luyện. Những cấp chỉ huy trong đơn vị như Baum và Sharon “cố tình” tìm kiếm các “mục tiêu thật” cho khóa sinh thực tập. Các khóa sinh còn được huấn luyện thêm về thể chất, nhu đạo (Judo), cận chiến, các loại vũ khí, mìn và phá hoại.
V. GIẢI TÁN
        Vụ thảm sát làng Qibya bị thế giới lên án, ngay cả bên trong Do Thái, nhiều viên chức chính quyền yêu cầu giải tán (“dẹp tiệm”) đơn vị 101. Và chính quyền Do Thái phải làm theo ý kiến của đa số, ra lệnh gải tán đơn vị 101, sát nhập vào đơn vị Nhẩy Dù  T’zanhanim trong tháng Giêng năm 1954. Đơn vị Dù được tăng thêm quân số lên đến cấp lữ đoàn, đặt tên là “Tiểu Đoàn 890”, Sharon được đề cử làm chỉ huy trưởng đơn vị này gồm có: tiểu đoàn 869 gốc tiểu đoàn Nhẩy Dù T’zanhanim cũ và tiểu đoàn 101 gốc đơn vị 101 cũ.
        Hành quân cấp lữ đoàn, “Tiểu Đoàn 890” được trao nhiệm vụ tấn công vào phòng tuyến quân đội chính quy Ai cập trong dải Gaza trong tháng Hai năm 1955. Đích thân Sharon chỉ huy trận tấn công, cuộc hành quân lấy tên là “Mũi Tên Đen” (Operation Black Arrow). Kết qủa 42 quân nhân Ai Cập thương vong, 36 bị thương, “Tiểu Đoàn 890” chỉ thiệt hại nhỏ, 8 quân nhân tử trận. Đơn vị mới này đảm nhận hầu hết các cuộc hành quân “đặc biệt” trong những năm còn lại của thập niên 1950s.
        Trong năm cuối thập niên 1950s, quân đội Do Thái nhận ra rằng thiếu đơn vị biệt kích nhỏ, đơn vị Nhẩy Dù T’zanhanim đã phát triển lên cấp lữ đoàn, không còn thích hợp với các loại hành quân biệt kích. Đó là lý do, Avraham Arnan được lệnh thành lập một đơn vị mới mà sau này rất nổi tiếng Sayeret Matkal trong năm 1958. Đơn vị Dù T’zanhanim mất danh xưng “Lực Lượng Đặc Biệt”, họ thành lập đơn vị biệt kích cho riêng họ (Tương đương Đại Đội Trinh Sát), lấy tên là Sayeret T’zanhanim (Trinh Sát Dù).

Reference:

American University in Bosnia
College of Information Technology
vđh

Wednesday, May 25, 2011

LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT DO THÁI



LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT DO THÁI
SAYERET MATKAL

I. LỜI GIỚI THIỆU
        Sayeret Matkal (Hebrew: סיירת מטכ"ל‎, translation: General Staff Reconnaissance Unit) là một đơn vị tinh nhuệ, lực lượng đặc biệt trực thuộc bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Do Thái. Nhiệm vụ chính yếu dành cho đơn vị này là chống lại quân khủng bố, thám thính, thâu thập tin tức tình báo đằng sau phòng tuyến của địch. Trước khi có những vụ khủng bố, Sayaret Matkal thường làm nhiệm vụ trinh sát, lấy tin tức tình báo tác chiến sâu trong đất địch. Sau trận chiến Sáu Ngày, để đối phó với quân khủng bố Palestine, Sayeret Matkal được trao thêm nhiệm vụ giải cứu con tin bị quân khủng bố bắt giữ ngoài lãnh thổ Do Thái (ở ngoại quốc).
        Lực Lượng Đặc Biệt Sayeret Matkal được tổ chức theo khuôn mẫu đơn vị “Dịch Vụ Đặc Biệt Hàng Không” (Special Air Service - SAS) quân đội Anh. Lúc mới thành lập, Sayeret Matkal trực thuộc cục Tình Báo, An Ninh Quân Đội, sau đó đặt dưới quyền xử dụng trực tiếp của bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Do Thái.
        Trận đột kích chớp nhoáng nổi tiếng nhất của Sayeret Matkal là hành quân “Sấm Sét” (Thunderbolt), còn được gọi là hành quân Entebbe. Trận đột kích “thần sầu” này, Sayeret đã giải cứu hơn một trăm con tin người Do Thái đi chuyến bay của hãng hàng không Air France bị nhóm khủng bố Palestine không tặc, ép bay sang Uganda. Kết qủa trận này, biệt kích Do Thái bắn hạ 52 lính Uganda, tất cả nhóm khủng bố, đổi lại một sĩ quan chỉ huy nhóm xung kích Yonatan Netanyahu cùng ba con tin Do Thái.
        Sayeret Matkal được thành lập từ năm 1957 bởi Avraham Arnan (Herling), một cựu sinh viên cổ học Yeshiva (nền giáo dục cổ truyền dựa trên kinh Talmud và Torah cổ của Do Thái) và cũng là một chiến sĩ Palmach (xung kích). Avraham Arnan cũng là cấp chỉ huy đầu tiên của đơn vị đặc biệt này. Ông ta trình lên bộ Tổng Tham Mưu, thành lập một đơn vị bí mật để xâm nhập sâu vào lãnh thổ của địch, thâu thập tin tức tình báo tác chiến cho bộ Tổng Tham Mưu. Lúc khởi thủy, đơn vị “đặc biệt” là một phần trong đơn vị 157 dưới quyền chỉ huy của Arnan. Qua năm sau, Sayeret Matkal tách ra khỏi đơn vị 157, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của bộ Tổng Tham Mưu, trở nên một Lực Lượng Đặc Biệt theo khuôn mẫu của đơn vị SAS Anh quốc.
        Binh sĩ tuyển chọn phục vụ trong đơn vị Sayeret Matkal được các hướng đạo sắc dân du mục Bedouin hướng dẫn, huấn luyện kỹ thuật trinh sát, tìm kiếm dấu vết. Cùng với phi đội trực thăng đầu tiên của Do Thái mới thành lập trước đó một năm, quân biệt kích Sayeret Matkal có thể xâm nhập sâu vào lãnh thổ của các quốc gia trong khối Ả Rập.
        Năm 1959, một quân nhân tên là Ehud Barak được thâu nhận phục vụ trong đơn vị Sayeret Matkal và sau này trở nên chỉ huy trưởng đon vị “Đặc Biệt” 101, cũng như danh tướng Ariel Sharon, hai nhân vật huyền thoại trong quân lực Do Thái. Một người “ngoại lệ” nữa trong đơn vị 101 là Trung Úy Meir Har Zion (Hebrew:מאיר הר ציון: born 1934) được Tướng “Độc Nhãn” Moshe Dayan khen là chiến sĩ giỏi nhất trong quân lực Do Thái. Không được may mắn như hai danh tướng Ehud Barak, Ariel Sharon, cuộc đời binh nghiệp của Meir Har Zion kết thúc sớm, bị thương nặng và giải ngũ.

II. MEIR HAR ZION
        Trung Úy Meir Har Zion sinh năm 1934, thuộc thế hệ thứ hai (Sabra) sinh ra nơi vùng Đất Hứa (Do Thái). Năm 1947 thân phụ ông ta đưa gia đình đến định cư nơi làng chiến đấu (kibbutz) Ein Harod thuộc về hướng bắc Do Thái gần đồi Gilboa (Mount Gilboa). Trong năm đầu lúc mới gia nhập quân đội Do Thái, toán cảm tử dưới quyền Har Zion xâm nhập sâu 40 cây số vào đất Jordan đến thành phố cổ Petra (di tích lịch sử được UNESCO công nhận là một trong những kỳ quan mới của thế giới), để thâu hồi tử thi nhóm thiếu niên Do Thái bị giết.
        Năm 1953, Trung Úy Meir Har Zion là một trong những quân nhân thành lập ra đơn vị “huyền thoại” 101, tham dự trận đột đích đầu tiên của đơn vị này vào cuối tháng Tám năm 1953. Mười sáu cảm tử quân Do Thái di chuyển trên hai xe Jeep, hai xe Command Car, được một phi cơ thám thính hướng dẫn, xâm nhập qua tới Iraq, tấn công trại binh người Ả Rập Azakme Bedouin xung quanh một giếng nước ở Al Auja, cách thành phố Tikrit (Iraq) 13 cây số về hướng nam. Quân biệt kích Do Thái đốt phá doanh trại, Tướng Moshe Dayan bay đến quan sát chiến trường, lần đầu tiên gặp Meir Har Zion và ra lệnh tiết kiệm đạn, không được bắn bầy chim kên-kên đang rỉa những xác chết con lạc đà.
        Đêm 14 rạng 15 tháng Mười năm 1953, khoảng 65 quân biệt kích 101 tăng cường cho một đơn vị cấp lớn Do Thái tấn công làng Ả Rập Qibya nằm sâu 30 cây số trong khu vực West Bank (lúc đó thuộc về Jordan). Lúc đó Ariel Sharon đang làm chỉ huy trưởng đơn vị 101, Trung Úy Meir Har Zion chỉ huy một trong ba toán quân 101 nằm cản đường tiếp viện của địch từ các làng lân cận, Ni’Lil, Budrus, và Shuqba. Vụ này gây nên vụ thảm sát (massacre) 69 thường dân Ả Rập không võ trang, làng Qibya bị thiêu hủy và đơn vị 101 bị mang tiếng chiụ trách nhiệm (sau vụ này Ariel Sharon bị Tướng Moshe Dayan “đì” tối ta vì ông ta bênh vực đàn em, thuộc cấp). Một lần khác trong đêm 18 rạng 19 tháng Mười Hai, Har Zion chỉ huy hai toán quân biệt kích 101 phục kích một chiếc xe (có lẽ tình báo Do Thái biết trước) trên đường từ Bethlehem đi Hebron, giết chết vị bác sĩ người Li Băng Mansour Awad phục vụ trong đơn vị Lê Dương Ả Rập. Chuyện này làm đương kim Thủ Tướng Do Thái lúc đó Moshe Sharett nổi giận, không cho ông ta biết trước vụ “thanh toán” này. Ba đêm sau, Har Zion chỉ huy một toán bốn người, xâm nhập vào khu vực ngoại ô Hebron đặt bom giết chết hai nhân vật quan trọng Ả Rập và một phụ nữ đang mang bầu.
        Năm sau, hôm 26 tháng Năm 1954, tiểu đoàn 890 Nhẩy Dù được thành lập dưới quyền Ariel Sharon. Trung Úy Meir Har Zion được đích thân Sharon tuyển chọn là một trong mười quân nhân trong nhóm “hành động” do chính ông ta chỉ huy, đột kích vào một khu vực gần làng Khirbet Jinba hướng tây nam Hebron (Danh Tướng Sharon nổi tiếng là dám dẫn một toán biệt kích chừng 10 người đi “làm ăn”). Kết qủa quân biệt kích Do Thái giết chết hai binh sĩ Jordan, hai nông dân và hai con lạc đà... Một lần nữa Thủ Tướng Sharett nổi giận, ông ta nghi ngờ... có lẽ đám biệt kích “vô kỷ luật” cũng không xin phép vị Bộ Trưởng Quốc Phòng Pinhas Lavon.
        Đêm 27 rạng 28 tháng Sáu 1954, Har Zion là một trong toán biệt kích bẩy người dưới quyền chỉ huy Thiếu Tá Aharon Davidi đột kích bất ngờ doanh trại quân Lê Dương Ả Rập ở Azzun cách làng Qalqilva 13 cây số về hướng đông. Kết qủa ba lính Lê Dương bị giết cùng với một nông gia, Rafi’a Abdel Aziz Omar bị đâm chết vì báo động cho lính Lê Dương. Toán biệt kích Do Thái phải rút lui bỏ lại một người bị thương, Trung Sĩ Yitzhak Jibli. Khi được biết Jibli bị bắt, nằm trong tay địch quân, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Do Thái, Tướng “Độc Nhãn” Moshe Dayan chấp thuận cho đơn vị  biệt kích mở các trận phục kích bắt sống tù binh, con tin (để đổi lấy người của phe ta).
        Đêm cuối tháng Bẩy rạng 1 tháng Tám năm 1954, Trung Úy Har Zion chỉ huy một toán mười quân nhân biệt kích, bất ngờ tấn công hai lính cảnh sát trong khu vực lân cận Jenin, bắt sống một người. Ngày 30, 31 tháng Tám, Zion tham dự Hành Quân Binyamin 2 dưới sự chỉ huy của Ariel Sharon. Trận này được Thủ Tướng Sharett chấp thuận. Đơn vị biệt kích được chia làm bốn toán, toán chính yếu tấn công ngôi trường học nơi làng Beit Liqya, ba toán còn lại rải xung quanh chận đường tiếp viện của địch. Toán chận đường dưới quyền Har Zion bắn hạ một xe tiếp viện của quân Lê Dương Ả Rập, giết hai địch quân, một bị thương và bắt sống ba tù binh. Kết qủa thương lượng, trao đổi tù binh, Trung Sĩ Yitzhak Jibli được trả về Do Thái ngày 29 tháng Mười năm 1954.
        Khoảng giữa tháng Hai năm 1955, cô em gái của Har Zion, Shoshana cùng với anh bạn trai Oded Wagmeister, cả hai 18 tuổi bị giết chết ở Wadi Al Gar. Trung Úy Meir Har Zion cùng với ba chiến hữu trong tiểu đoàn 890 Nhẩy Dù xin giải ngũ (Lo việc cá nhân? Được sự “chấp thuận” của cấp chỉ huy Ariel Sharon? ông này nổi tiếng làm nhiều chuyện “động trời” vì đàn em, thuộc cấp). Ngày 4 tháng Ba, đích thân Ariel Sharon cung cấp vũ khí, lương thực cho bốn quân nhân “giải ngũ”, lái xe đưa họ đến lằn biên giới với Jordan (Armistice line).
        Bốn quân nhân biệt kích đã xin giải ngũ, xâm nhập sâu vào đất Jordan 9 cây số đến ngôi làng Wadi Al Gar nơi cô em gái Shoshana bị giết. Họ bắt sống sáu người Ả Rập thuộc sắc dân Jahaleen và Azazme Bedouin đem về đất Do Thái. Bốn nạn nhân bị giết bằng dao găm, một bằng súng, trong số nạn nhân có một thiếu niên 16 tuổi. Người thứ sáu được tha về để báo tin cho người Ả Rập biết số phận của năm người kia (Ăn miếng trả miếng. Câu châm ngôn của người Do Thái là “Mắt đổi mắt. Răng đổi răng”). Sau vụ này, một câu hỏi được nêu lên. Chưa chắc các nạn nhân Ả Rập có dính líu đến cái chết của cô em gái Shoshana? Thủ Tướng đương nhiệm David Ben Gurion (nhiệm kỳ 2, có lẽ bênh vực...) trả lời trước nội các chính quyền Do Thái... Có lẽ các quân nhân Do Thái vì bất đồng ngôn ngữ không hiểu các tù binh... trả lời. Tuy nhiên để trấn an dư luận, Meir Har Zion bị cơ quan an ninh Do Thái bắt giữ hai mươi ngày, anh ta nhận tất cả mọi tội phạm... và được trả về phục vụ nơi đơn vị cũ cùng với các chiến hữu. Cựu Thủ Tướng Sharett nghi ngờ Tướng Moshe Dayan “che chở” chuyện này trong hồi ký của ông ta “Phần đen tối của linh hồn trong kinh thánh đã quay trở lại với đàn con cháu của Nahalal và Ein Harod”. (Nahalal là tên một trong những ngôi làng định cư xa xưa nhất của người Do Thái trong đợt di cư thứ hai về miền Đất Hứa... họ sống rất cực khổ, khai khẩn đất hoang trong khu vực đồng lầy đầy muỗi sốt rét - vđh) 
        Hành quân Jonathan trong hai ngày 11, 12 tháng Chín năm 1955 do hai đại đội Nhẩy Dù đảm trách, tấn công căn cứ cảnh sát Khirbet Al Rahwa trên đường giữa hai thành phố Hebron và Beersheba, giết chết khoảng 20 binh sĩ, cảnh sát Jordan. Trong trận này Trung Úy Meir Har Zion bị trúng đạn nơi cổ và cánh tay, bác sĩ đã cứu mạng anh ta bằng cách giải phẫu đưa ông thông hơi vào cổ ngay trên chiến trường (tracheotomy). Meir Har Zion được thăng cấp Đại Úy, ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh nhưng bị tàn phế phải từ giã quân đội. Năm 1969, anh ta viết hồi ký về những ngày tháng phục vụ trong Quân Lực Do Thái. Hiện nay ông ta sống lặng lẽ trong một nông trại trên một ngọn đồi nhìn xuống thung lũng Jordan. Ông ta đặt tên cho nông trại là “Ahuzat Shoshana” tên của cô em gái.

III. EHUD BARAK
        Meir Har Zion không được may mắn trên đường binh nghiệp. Ehud Barak thăng tiến rất nhanh, tham dự hầu hết các cuộc hành quân biệt kích, lên đến chức vị Tổng Tham Mưu Trưởng năm 1991-1995. Năm 1999, ông ta trở nên vị Thủ Tướng thứ mười của Do Thái. Một trong những cuộc hành quân nổi tiếng Ehud tham dự là hành Quân Isotope, giải cứu con tin bị nhóm khủng bố Tháng Chín Đen không tặc cướp máy bay.
        Phi vụ 571 hãng hàng không Sabena, quốc gia Bỉ (Belgium) cất cánh từ Vienna đi Tel Aviv thủ đô Do Thái. Ngày 8 tháng Năm 1972, chiếc Boeing 707 do phi công Reginald Levy người Anh lái bị bốn tên không tặc thuộc tổ chức Tháng Chín Đen người Palestine cướp, đáp xuống phi trường Lod (Sau này đổi tên Ben Gurion, tên vị Thủ Tướng đầu tiên của Do Thái).
        Kế hoạch cướp chuyến bay này được Ali Hassan Salameh soạn thảo và do bốn tên khủng bố, hai đàn ông, hai phụ nữ võ trang súng lục giả dạng nhân tình đi du lịch Âu châu, dưới quyền chỉ huy của Ali Taha. Khi chiếc máy bay cất cánh được khoảng hai mươi phút, bốn tên khủng bố bất ngờ tràn vào buồng lái, và tiếp theo là giọng của viên phi công trưởng Reginald Levy “Chúng ta có mấy người bạn... tháp tùng chuyến bay”  
        Quân khủng bố Tháng Chín Đen đòi yêu sách trả tự do cho 315 tên khủng bố đang bị giam giữ trong các nhà tù ở Do Thái, nếu không được thỏa mãn họ sẽ cho nổ tung chiếc máy bay cùng với hành khách vô tội. Bộ Trưởng An Ninh (Nội Vụ) lúc đó là Tướng Độc Nhãn Moshe Dayan tìm cách thương thuyết (câu giờ) với đám khủng bố, để cho quân đội có thêm thời gian chuẩn bị. Cuộc hành quân giải cứu con tin có tên là “Isotope”.
        Chỉ một ngày chuẩn bị, hôm 9 tháng Năm, lúc 4:00 giờ chiều cuộc hành quân Isotope bắt đầu với mười sáu biệt kích quân Sayeret Matkal do Ehud Barak chỉ huy. Trong số biệt kích Sayeret Matkal có mặt Benjamin Netanyahu, cả hai đều là những vị Thủ Tướng tương lai của Do Thái (hiện nay, năm 2011 là Netanyahu). Các biệt kích quân ăn mặc giả làm chuyên viên cơ khí, nhân viên làm việc trong phi trường tiến lại chiếc máy bay đang đậu. Họ nói với quân khủng bố, chiếc máy bay cần coi lại máy móc, rồi bất thần xông vào buồng lái bên trong máy bay. Trong vòng 10 phút, quân biệt kích Sayeret Matkal làm chủ tình hình, giết chết hai tên khủng bố đàn ông, bắt sống hai phụ nữ. Chỉ có ba hành khách bị thương, một người sau đó chết trong bệnh viện. Vị Thủ Tướng đương nhiệm (hiện thời 2011) Netanyahu bị thương trong trận đánh chớp nhoáng này, do đạn của phe ta.

IV. ĐOẠN KẾT
        Là một đơn vị “tối mật”, Sayeret Matkal rất có uy tín, ảnh hưởng trong quân đội Do Thái. Trong các trận đánh lớn, các biệt kích quân làm nhiệm vụ xung kích cảm tử, thâu thập tin tức tình báo tác chiến cho Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ra họ còn được trao cho những nhiệm vụ bí mật khác mà quân đội Do Thái vẫn còn giữ kín không cho biết.
        Việc tuyển chọn quân biệt kích Sayeret Matkal rất khó khăn, phải có hồ sơ quân bạ tốt và đức tính cá nhân. Họ được huấn luyện cam go về kỹ thuật biệt kích, nhẩy dù, biệt động, và chống khủng bố. Đơn vị Sayeret Makal có phù hiệu riêng nhưng bị cấm không được đeo vì lý do bảo mật của đơn vị.

V. NGƯỜI CỦA MUÔN NĂM CŨ
        Sayeret Matkal đã tạo nên nhiều “huyền thoại”, nhân vật lừng danh trong quân sử Do Thái:
- Uzi Yairi. Cựu chỉ huy trưởng đơn vị. Lữ đoàn trưởng Nhẩy Dù. Tử trận lúc đang nghỉ phép trong Hành Quân Savoy. Lúc 11:00 giờ đêm ngày 4 tháng Ba năm 1975, tám tên khủng bố thuộc Mặt Trận Giải Phóng Palestine (PLO) chia làm hai toán xâm nhập bằng đường biển vào thủ đô Tel Aviv. Quân khủng bố vào đến trung tâm thành phố, nơi khách sạn Savoy, tấn công, ném lựu đạn, bắt giữ con tin. Họ đe dọa chính quyền Do Thái, phải trả tự do cho hai mươi tên khủng bố trong vòng bốn tiếng đồng hồ, nếu không sẽ giết tất cả con tin trong khách sạn. Sáng sớm hôm sau, toán “chống khủng bố” thuộc đơn vị biệt kích Sayeret Matkal xông vào khách sạn, giết chết bẩy tên, bắt sống một. Họ cứu được năm vị khách, tám người khác đã bị quân khủng bố hành quyết. Ba biệt kích quân Sayeret Matkal tử thương trong đó có vị chỉ huy trưởng Uzi Yairi, đang nghỉ phép, gặp “chuyện lớn” phải về đơn vị gấp. Vài tiếng đồng hồ sau, lực lượng an ninh Do Thái bắt giữ thủy thủ đoàn lái chiếc tầu chở đám khủng bố xâm nhập. Vụ khủng bố này do Abu Jihad soạn thảo để trả thù đơn vị Sayeret Makal đã đột nhập vào Beirut, Li Băng trong tháng Tư năm 1973, giết chết ba lãnh tụ của họ (PLO).
- Nechemva Cohen. Một trong những người nổi tiếng trong đơn vị Sayeret Makal và trong quân đội như Barak. Tử trận. Ông ta được xây bức tượng “Tưởng Niệm” trong đơn vị.
- Ehud Barak. Chỉ huy trưởng đơn vị. Tốt nghiệp đại học nổi tiếng Stanford ở Hoa Kỳ, sau này trở nên Tổng Tham Mưu Trưởng và Thủ Tướng của Do Thái.
- Bejamin Netanyahu. Chỉ huy một thành phần trong đơn vị. Tốt nghiệp đại học nổi tiếng MIT, đã từng và đương nhiệm Thủ Tướng Do Thái.
- Iddo Netanyahu. Quân nhân trong Sayeret Matkal. Văn sĩ, chuyên viên quang tuyến. Người em trai út của Thủ Tướng Benjamin Netanyahu.
- Yonatan Netanyahu. Chỉ huy trưởng Sayeret Matkal. Tử trận (người duy nhất) trong Hành Quân Sấm Sét (Thunderbolt), Entebbe, Uganda. Anh trai của Thủ Tướng Benjamin.
- Shaul Mofaz. Chỉ huy phó đơn vị, sau này trở nên Tổng Tham Mưu Trưởng và Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái.
- Moshe Yaalon. Chỉ huy trưởng đơn vị Sayeret Matkal, sau này trở nên Tổng Tham Mưu Trưởng, Bộ Trưởng “Chiến Lược”.
- Danny Yatom. Chỉ huy phó đơn vị. Sau này lên cấp Tướng, giám đốc cơ quan Tình Báo Mossad và nghị sĩ trong Quốc Hội (Knesset).
- Avi Dichter. Quân nhân trong đơn vị. Sau này lên chức giám đốc cơ quan An Ninh Quân Đội Shin Bet, Bộ Trưởng Nội Vụ.
- Daniel M. Lewin. Quân nhân trong đơn vị. Sáng lập công ty Akamai Technologies. Chết trong chuyến bay 11 (ngày 11 tháng Chín). (Khủng Bố September 11)

VI. CÁC HÀNH QUÂN NỎI TIẾNG
- 1963. Hành quân Halutz. Cuộc hành quân biệt kích đầu tiên xử dụng trực thăng Sikorsky H-34 vào bán đảo Sinai. Nhiệm vụ chính cho đơn vị biệt kích là thám sát, lấy tin tức tình báo tác chiến cho cuộc hành quân Shrak Rak sẽ tiếp nối. Tình báo Do Thái muốn phối kiểm tin tức về việc Ai Cập đã đưa một sư đoàn Thiết Giáp và ba lữ đoàn Bộ Binh vào vùng Sinai.
- 1964. Hành quân Shrak Rak. Quân đội Do Thái đã học hỏi được kỹ thuật tác chiến trong sa mạc từ cuộc hành quân này cho trận chiến thắng thần tốc Sáu Ngày năm 1967. Ehud Barak là chỉ huy trưởng đơn vị biệt kích Sayeret Matkal trong cả hai cuộc hành quân kể trên.
- 1968. Hành quân Shock. Được Không Lực yểm trợ, biệt kích Sayeret Matkal phá hủy nhà máy điện và chiếc cầu bắc qua sông Nil trên đất Ai Cập.
- 1968. Hành quân Gift. Phá hủy mười bốn phi cơ dân sự của các hãng hàng không Ả Rập trong phi trường quốc tế Beirut ở Li Băng.        
- 1969. Hành quân Orchard 22, Orchard 37. Đột kích phá hoại trạm phát điện cao thế, đài  antenna của Ai Cập.
- 1969. Hành quân Bulmst 6. Phối hợp với đơn vị Biệt Hải (Sayretet 13) tấn công pháo đài trên đảo Green (Green Island) của Ai Cập.
- 1969. Hành quân Rooster 53. Được Không Lực yểm trợ, quân biệt kích Sayeret Matkal, đột kích, tháo gỡ dàn radar mới của Ai Cập đem về Do Thái.
- 1972. Hành quân Isotope. Cứu con tin, giết không tặc chuyến bay Sabena 571 trong phi trường Lod, thủ đô Tel Aviv.
- 1972. Hành quân Crate 3. Bắt cóc năm sĩ quan tình báo Syria.
- 1973. Hành quân Spring of Youth. Phối hợp với Biệt Hải (Sayetet 13), xâm nhập Lebanon giết ba lãnh tụ quân khủng bố Tháng Chín Đen (PLO).
- 1973. Trong trận Yom Kippur, biệt kích Sayeret Matkal tăng cường cho lữ đoàn Golani tái chiếm Đồi Hermon từ đơn vị cảm tử Syria. Ngoài ra nhiều toán biệt kích Sayeret Matkal xâm nhập sâu vào đất Ai Cập và Syria, tổ chức phục kích giết cấp chỉ huy của địch.
- 1974. Vụ thảm sát Ma’alot. Biệt kích Sayeret giải cứu các trẻ em học sinh trong một trường học bị bắt làm con tin. Nhiều trẻ em bị thiệt mạng.
- 1988. Biệt kích Do Thái xâm nhập Tunis, Tunisia giết trùm khủng bố Abu Jihad.
Và nhiều cuộc hành quân bí mật khác.

American University in Bosnia
Tuzla, 21 tháng năm 2011
vđh

TÌNH BÁO NỘI VỤ DO THÁI



TÌNH BÁO NỘI VỤ DO THÁI
SHIN BET

I. LỜI GIỚI THIỆU
        Tên chính thức của cơ quan tình báo này là Sherut ha Bitachon ha Klali (Hebrew: שירות הביטחון הכללי‎, "General Security Service" An Ninh Tổng Quát), thường được gọi tắt là Shabak (Hebrew: שב״כ‎, Arabic: شاباك‎), tiếng Anh là Shin Bet. Cơ quan này có khẩu hiệu là “Kẻ Phòng Vệ Trong Bóng Tối” "Magen VeLo Yera'e" (Hebrew: מגן ולא יראה‎, “Lá Chắn Trong Bóng Tối”). Một trong ba cơ quan tình báo quan trọng của Do Thái, cùng với A’Man và Mossad.

II. TỔ CHỨC
        Vì lý do bảo mật, cơ quan Shin Bet “được biết” có ba cánh:
-          Ban Dịch Vụ người Ả Rập. Ban này có nhiệm vụ chống khủng bố trên đất Do Thái cũng như trong những khu vực người Palestine.
-          Ban Dịch Vụ cho sắc dân không phải Ả Rập. Lo những dịch vụ an ninh không liên quan đến người Ả Rập. Liên lạc với các cơ quan an ninh ngoại quốc. Ban này trước đó lo những vấn đề liên quan đến khối Đông Âu (Cộng Sản).
-          Ban Bảo Vệ Yếu Nhân (nhân vật quan trọng). Bảo vệ viên chức cao cấp trong chính quyền, trong các tòa đại sứ Do Thái. Ngoài ra bảo vệ an ninh những cơ sở quan trọng như phi trường, hải cảng, cơ quan hoặc viện nghiên cứu trong nước.
        Mặc dầu là một cơ quan an ninh, tình báo, Shin Bet không nằm trong bộ Quốc Phòng, vị Giám Đốc cơ quan Shin Bet chịu trách nhiệm trực tiếp với Thủ Tướng Do Thái.

III. NHIỆM VỤ
        Nhiệm vụ dành cho cơ quan Tình Báo Nội Vụ Shin Bet bao gồm:
-          Bảo vệ nền an ninh quốc gia.
-          Theo dõi, các đường dây khủng bố.
-          Phá vỡ, bắt giữ, thẩm vấn lấy tin tức quân khủng bố hoặc những kẻ bị nghi ngờ.
-          Cung cấp tin tức tình báo cho các đơn vị “Chống Khủng Bố” hoạt động trong khu vực West Bank, dải đất Gaza.
-          Phản gián.
-          Bảo vệ yếu nhân, viên chức cao cấp trong chính quyền, cơ sở quan trọng như phi trường, hải cảng, tòa đại sứ, các trung tâm nghiên cứu, hãng hàng không, hàng hải Do Thái.

IV. LỊCH SỬ
        Sau khi quốc gia Do Thái tuyên bố độc lập năm 1948, cơ quan Shin Bet (Shabak) được thành lập như một ngành trong Lực Lượng Quốc Phòng Do Thái dưới quyền chỉ huy của Isser Harel (Cấp chỉ huy đầu tiên của Shin Bet, được xem như “Thân Phụ” của ngành Tình Báo Do Thái, sau đó ông ta qua nắm quyền điều hành cơ quan Tình Báo Hải Ngoại Mossad). Sau đó, nhiệm vụ cũng như vấn đề điều hành cơ quan Shin Bet từ Quân Đội chuyển qua Phủ Thủ Tướng. Trong trận chiến Ả Rập – Do Thái năm 1948 (Trận Chiến Độc Lập), Shin Bet chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là an ninh nội bộ. Về sau, cơ quan này được trao phó thêm nhiệm vụ phản gián (chống gián điệp) và theo dõi.
        Một trong những điệp vụ nổi tiếng của Shin Bet, lấy được một phó bản bài diễn văn (bí mật) của lãnh tụ Nga Sô Nikita Khrushchev năm 1956 (khoảng thời gian này, ngành tình báo Do Thái chưa phân ra Hải Ngoại (Mossad), Quân Sự (A’Man) hay Nội Vụ (Shin Bet)), trong đó ông ta hạ bệ “Ông Trùm” Stalin. Bản diễn văn của Khrushchev dịch sang tiếng Ba Lan, được bí mật trao cho một điệp viên trong tòa đại sứ Do Thái ở Warsaw (Poland, Ba Lan), lúc đó đang nằm trong khối Cộng Sản Đông Âu. Do Thái chuyển tiếp đến Hoa Kỳ và được đang trên báo chí.
        Một điệp vụ phản gián thành công của Shin Bet là vụ bắt giữ Israel Beer năm 1961. Israel Beer thực ra là một điệp viên Nga Sô, cấp bậc Trung Tá trừ bị, xâm nhập vào sâu trong chính quyền Do Thái. Ông ta trở nên một bình luận gia thâm niên (senior) về vấn đề an ninh và là một trong những người thân cận của Thủ Tướng Ben Gurion. Israel Beer bị đưa ra tòa, kết án tù 10 năm, sau đó Tối Cao Pháp Viện tăng lên 15 năm về tội làm gián điệp, và chết trong nhà tù. Cũng trong năm 1961, Shin Bet bắt thêm Kurt Sita, một người Đức theo đạo Tin Lành (Christian), gốc rễ từ Sudetenland (khu vực ở Tiệp Khắc có nhiều người gốc Đức, tên khu vực tiếng Đức), và đang là một Giáo Sư trong viện kỹ thuật Technion ở Do Thái. Kurt Sita bị khép tội làm gián điệp cho Tiệp Khắc (Czechoslovakia), một nước thuộc vào khối Cộng Sản Đông Âu.
        Năm 1967, một gián điệp đôi (nhị trùng, hai mang) người Ai Cập gốc Do Thái, Rifat Al Gamal (tên khác là Jacques Bitton) trao cho Tình Báo Ai Cập những tin tức sai lạc về kế hoạch hành quân của Do Thái, quân đội Do Thái sẽ mở màn trận tấn công bằng bộ binh. Kết qủa không quân Ai Cập để các chiến đấu cơ của họ nằm “phơi bầy” trên phi đạo, trở thành những mục tiêu ngon lành, bị không lực Do Thái loại khỏi vòng chiến trong vòng ba tiếng đồng hồ đầu tiên của trận chiến Sáu Ngày. Chuyện “gián điệp nhị trùng”, đánh lừa (deception) sau này được biết có tên là Chiến Dịch Yated (Operation Yated).
        Sau trận chiến lớn, vấn đề đối phó với quân khủng bố trở nên nghiêm trọng. Một trong những nhiệm vụ chính yếu của cơ quan Shin Bet là theo dõi các hoạt động của quân khủng bố trong khu vực West Bank và dải Gaza. Trong những năm 1984 – 1986, Shin Bet bị chỉ trích nặng nề, thế giới lên án sau vụ hai tên khủng bố Palestine cướp một chuyến xe bus trong thủ đô Tel Aviv, bắt giữ hành khách làm con tin.
        Chuyện scandal này có tên là Kav 300 (Hebrew: "קו 300", literally "Chuyến xe bus 300"). Báo chí trên thế giới phanh phui, chụp ảnh được một trong hai tên khủng bố bị quân nhân Shin Bet còng tay lôi ra khỏi xe bus, đấm đá cho đến khi cả hai đều chết. Năm 1985, Chuẩn Tướng Yitzhak Mordechai người chỉ huy trận tấn công giải cứu con tin, cùng mười một quân nhân Shin Bet bị truy tố trước tòa án về tội giết “Hai Tù Binh”. Chuyện giết người tàn bạo vẫn chưa kết thúc, cuộc điều tra “nội bộ” (Internal Affair Investigation) phơi bầy ra chính vị Giám Đốc cơ quan Shin Bet ra lệnh giết hai tên khủng bố, che dấu rồi âm mưu đổ tội cho Tướng Yitzhak Mordechai. Kết cuộc vị Giám Đốc cơ quan Shin Bet, Avraham Shalom bị ép buộc giải ngũ.
        Năm 1987, chính quyền Do Thái ra lệnh thành lập Ủy Ban Landau điều tra “phương pháp” thẩm vấn (hỏi cung) của cơ quan Shin Bet. Như Ủy Ban Agranat trước đây, Ủy Ban Landau phê bình, chỉ trích “phương pháp” thẩm vấn của Shin Bet, lập ra nguyên tắc “làm việc” cho cơ quan tình báo này. Những biện pháp nào được áp dụng cho tội nhân (tù nhân) dựa trên sức chịu đựng thể xác con người.
        Trong năm 1995, cơ quan Shin Bet đã không làm tròn nhiệm vụ bảo vệ vị nguyên thủ quốc gia. Thủ Tướng Yitzhak Rabin bị ám sát chết hôm 4 tháng Mười Một bới một người theo phái khuynh tả (right wing) Yigal Amir. Yigal Amir theo đạo “Chính Thống” (Orthordox Jew) Do Thái giáo, sinh viên Luật và Computer Science viện đại học Bar Llan, thường lên tiếng chống đối chính quyền. Cơ quan Shin Bet đã biết trước kế hoạch (ám sát) của Yigal Amir, phái một nhân viên theo dõi anh ta, nhưng ông này báo cáo anh sinh viên Yigal Amir không có gì đáng sợ.
        Ngay sau khi Thủ Tướng Yitzhak Rabin bị ám sát chết, vị Giám Đốc cơ quan Shin Bet, Carmi Gillon từ chức trước khi Ủy Ban Shamgar tiến hành cuộc điều tra. Ủy ban này tìm ra nhiều sai lầm của Shin Bet trong việc tuyển chọn nhân viên. Thêm một nguồn tin khác gây rắc rối cho Shin Bet từ mật báo viên Avishai Raviv làm việc trong ban Dịch Vụ người Do Thái. Anh ta có nhiều hành động khác thường trước khi vụ ám sát xẩy ra, sau đó vị truy tố ra tòa về tội xúi dục  thủ phạm Yigal Amir giết Thủ Tướng Yitzhak Rabin.
        Vài tháng sau vụ ám sát Thủ Tướng Rabin, thủ lãnh nhóm chế tạo bom Hamas, Yahva Avvash bị giết chết bằng bom gắn trong máy điện thoại di động (cell phone) của ông ta.
        Đô Đốc Hải Quân Do Thái Ami Avalon lên thay Gillon làm Giám Đốc cơ quan Shin Bet, ông ta củng cố, lấy lại uy tín cho cơ quan Tình Báo Nội Vụ.
        Trong năm 2000, Avi Ditchter lên thay Avalon trong chức vụ Giám Đốc cơ quan. Avi Ditchter đã từng phục vụ trong đơn vị biệt kích Sayeret Matkal, là một điệp viên Shin Bet nhiều kinh nghiệm, ông ta thắt chặt hệ thống làm việc phối hợp giữa quân đội và cảnh sát. Trong thời gian Avi Ditchter nắm quyền điều hành cơ quan Shin Bet, phong trào Nổi Dậy (lần thứ hai Al-Aqsa Intifada Arabic: انتفاضة الأقصى‎, Intifāat Al Aqa; Hebrew: אינתיפאדת אל-אקצה‎, Intifādat El-Aqtzah) của người Palestine bùng nổ, ông ta chỉ huy cơ quan chống lại quân khủng bố rất xuất sắc, sau khi hội nghị trong Camp David (Hoa Kỳ làm trung gian) thất bại năm 2000.
        Trong tháng Mười Một năm 2003, bốn vị cựu Giám Đốc cơ quan Shin Bet: Avraham Shalom, Yaakov Peri, Carmi Gillon, và Ami Avalon lên tiếng yêu cầu chính quyền Do Thái tìm kiếm hòa bình với Palestine. Tháng Năm 2005, Avi Ditchter được thay thế bởi Yuval Diskin.

V. CÁC VỊ GIÁM ĐỐC (CHỈ HUY TRƯỞNG)
  1. Isser Harel                   1948–1952
  2. Izi Dorot                     1952–1953
  3. Amos Manor               1953–1963
  4. Yossef Harmelin         1964–1974
  5. Avraham Ahituv         1974–1981
  6. Avraham Shalom        1981–1986
  7. Yossef Harmelin         1986–1988
  8. Yaakov Peri                1988–1994
  9. Carmi Gillon               1995–1996
  10. Ami Ayalon                1996–2000
  11. Avi Dichter                 2000–2005
  12. Yuval Diskin               2005–2011
  13. Yoram Cohen              2011–

VI. THAY LỜI KẾT
        Năm 1987, sau nhiều lần bị tai tiếng vì tàn bạo, Ủy Ban Landau (do cựu thẩm phán tòa án Tối Cao, Moshe Landau làm chủ tịch) điều tra cơ quan phương thức làm việc của Shinbet và đưa ra một vài điều luật về vấn đề hỏi cung, thẩm vấn tù binh. Trong năm 1994, nhân viên điều tra cấp trung ương (quốc gia), Miriam Ben Porat báo cáo, những luật lệ của Ủy Ban Landau không được cơ quan Shin Bet áp dụng, thi hành, và giới chức cao cấp Shin Bet làm ngơ.
        Trong nhiệm vụ chống khủng bố đánh bom tự sát trong khu vực West Bank, cơ quan Shin Bet phối hợp chặt chẽ với quân đội (Biệt Kích), Không Quân chỉ điểm chính xác mục tiêu, thanh toán cấp lãnh đạo trong các nhóm khủng bố, các tổ chức quá khích người Palestine như Hamas, Hồi giáo Jihad, “Lữ Đoàn Tử Đạo Al Aqsa”, El fatah và một liên lạc viên Al Aqaeda, Iad Al Bik. Những nhân vật lãnh đạo kể trên là những mục tiêu cho trực thăng võ trang (Gunships). Cấp chỉ huy quân đội cùng với một nhân viên Shin Bet ngồi trong trung tâm hành quân theo dõi vụ “thanh toán” cấp chỉ huy địch quân.
        Các cấp chỉ huy, sĩ quan tình báo (nói chung) thường thăng tiến trong quân đội cũng như ngoài xã hội. Những nhân vật lừng danh trong lịch sử Do Thái như Moshe Dayan (Tướng Độc Nhãn), Ariel Sharon, Yitzhak Rabin đều đã từng nắm chức vụ chỉ huy một trong ba cơ quan tình báo Do Thái. 

American University in Bosnia
Tuzla, May 25, 2011
vđh