Đơn vị 101 là một đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt trong quân đội Do Thái, được thành lập và chỉ huy bởi danh tướng (sau này) Ariel Sharon theo lệnh của Thủ Tướng Ben Gurion trong tháng Tám năm 1953. Đơn vị này được thành lập để đối phó với phong trào “Trung Thành Với Thượng Đế” (Fedayeen) của người Palestine thường bất ngờ tấn công Do Thái mà quân đội không ngăn chận được.
Đơn vị sát nhập vào tiểu đoàn Nhẩy Dù 890 trong tháng Giêng năm 1954, lý do giết hơn một chục thường dân không võ trang trong trận tấn công làng Qibya, vụ này gọi là “Cuộc Thảm Sát Qibya” (Qibya Massacre). Bên cạnh đơn vị Biệt Kích Sayeret Matkal, là hai đơn vị nổi tiếng trong Lục Quân Do Thái trên cả hai chiến trường: trận điạ chiến và chiến tranh ngoại lệ.
II. KHỞI THỦY
Sau trận chiến Do Thái - Ả Rập 1948 (Trận Chiến Độc Lập), quốc gia mới được độc lập Do Thái thường xuyên bị du kích quân Ả Rập xâm nhập quấy phá, cướp của, giết người. Sau đó vấn đề trở nên nghiêm trọng, quân cướp Ả Rập được các quốc gia Ả Rập huấn luyện, tổ chức thành đội ngũ để mở các trận tấn công lớn từ năm 1954 trở về sau. Theo báo cáo của chính quyền Do Thái, từ năm 1949 đến năm 1956, người Ả Rập xung quanh đã tấn công, xâm nhập vào đất Do Thái khoảng 9000 lần gây thương vong cho hàng trăm thường dân Do Thái.
Trong những năm đó quân đội Do Thái chưa có kinh nghiệm chống lại những trận tấn công, đột kích bất ngờ. Đơn vị Palmach (tiền thân của Lực Lượng Đặc Biệt Do Thái) là đơn vị nổi tiếng nhất trong trận chiến 1948 đã bị giải tán theo lệnh của Thủ Tướng Ben Gurion. Nhiều sĩ quan đã giải ngũ trở về sống với gia đình, quốc gia Do Thái từ ngày lập quốc đã phải trải qua chiến tranh, lâm vào cảnh khó khăn trên phương diện kinh tế. Vấn đề này đưa đến kết qủa, quân đội Do Thái vẫn còn yếu kém, không đủ khả năng “Tấn Công” quân thù Ả Rập.
“Người Palestine phải học những bài học rằng họ sẽ phải trả giá cao cho sinh mạng người Do Thái”. Đó là lời nói chuyện giữa Thủ Tướng Ben Gurion và Ariel Sharon, người thành lập và cấp chỉ huy đầu tiên của đơn vị 101. Ông ta sau này trở nên một vị tướng lãnh lừng danh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực, Bộ Trưởng Quốc Phòng và Thủ Tướng của Do Thái.
Để đáp ứng lại đám cướp hung hãn Ả Rập, quân đội Do Thái thành lập đơn vị 30 trong năm 1951. Đơn vị 30 là một đơn vị “bí mật” đặt dưới quyền chỉ huy Bộ Tư Lệnh Phương Nam (Southern Command). Nhiệm vụ dành cho đơn vị này là tấn công “trả đũa” bằng những toán biệt kích nhỏ được tuyển chọn, huấn luyện kỹ càng. Tuy nhiên sĩ quan đơn vị 30 không đủ khả năng hoặc không được huấn luyện ở cấp cao hơn nên không làm tròn nhiệm vụ và đơn vị 30 bị giải tán năm 1952.
III. ĐƠN VỊ 101
Một trong những trận đánh cuối cùng của Sharon trước khi giã từ quân đội năm 1952 là cuộc hành quân Bin Nun Alef, tấn công qua biên giới Jordan. Trong trận đó, ông ta bị thương nặng, sau đó đề nghị lên bộ Tổng Tham Mưu thành lập một đơn vị nhỏ, tinh nhuệ, huấn luyện kỹ thuật tác chiến biệt kích cho các trận đột kích trả đũa. Quân đội Do Thái đã nhiều lần tấn công trả đũa không thành công, Thủ Tướng Do Thái Ben Gurion ra lệnh cho Tổng Tham Mưu Trưởng Mordechai Maklef một “Lực Lượng Đặc Biệt” trong mùa hè năm 1953. Đó là đơn vị Biệt Kích đầu tiên của Do Thái và “quân nhân trừ bị” Ariel Sharon được gọi trở lại quân đội.
Sharon được gắn cấp bậc Thiếu Tá trao cho nhiệm vụ chỉ huy đơn vị “đặc biệt” cấp đại đội mới thành lập cùng với viên phụ tá Shlomo Baum. Đơn vị có 50 quân nhân, đa số tình nguyện từ đơn vị Nhẩy Dù Tzanhanim và đơn vị 30 trước đó. Các quân nhân trong đơn vị được trang bị đặc biệt cho nhiệm vụ tấn công trả đũa dọc theo biên giới Do Thái. Căn bản của đơn vị này là những toán biệt kích nhỏ, trang bị nhẹ, dễ di chuyển, xâm nhập, tấn công trong đất địch. Quan niệm này vẫn còn được xử dụng (làm nền tảng) cho các đơn vị Biệt Kích trên thế giới ngày nay.
Đơn vị mới thành lập bắt đầu chương trình huấn luyện ngày đêm rất cam go. Trong nhiều bài học chiến thuật, họ băng qua biên giới thực tập ngay trên đất địch, lấy kinh nghiệm chạm địch bất ngờ. Phần vũ khí, chất nổ được huấn luyện trong căn cứ của đơn vị, ngôi làng Ả Rập Sataf đã bỏ hoang nơi hướng tây thành phố Jerusalem. Đơn vị “đặc biệt” trên hai phương diện:
. Là đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt đầu tiên trong quân lực Do Thái, được tổ chức từ đầu không như các đơn vị “biến chế” chẳng hạn như trung đội Trinh Sát lữ đoàn Golani (lấy quân tình nguyện từ trong lữ đoàn ra thành lập).
. Chưa một đơn vị nào nhận lệnh trực tiếp từ Bộ Tổng Tham Mưu, Phòng Hành Quân Đặc Biệt (Matkal). Tất cả các đơn vị khác trong quân lực Do Thái nhận lệnh từ các vị tư lệnh Quân Đoàn, Chiến Trường.
Lúc ban đầu các sĩ quan trong đơn vị Nhẩy Dù (T'zanhanim Hebrew: הצנחנים, Paratroopers) chống lại việc thành lập Đơn Vị 101. Lý do không muốn có đơn vị khác “nổi hơn” trong nhiệm vụ trả đũa địch quân. Trước khi đơn vị 101 được thành lập, quân Nhẩy Dù là đơn vị duy nhất có khả năng này. Một trong những cấp chỉ huy trong đơn vị này là Meir Har Zion được thăng cấp tại mặt trận từ hàng binh sĩ lên sĩ quan qua những chiến công. Mặc dầu các trận tấn công, đột kích của đơn vị 101 rất thành công, nhưng cũng không bổ xung kịp sụ tổn thất của đơn vị.
Đơn vị 101 làm cho đám cướp Ả Rập bớt “hung hăng”, số lượng tấn công giảm thiểu đi rất nhiều và đơn vị 101 đã chu toàn nhiệm vụ trao phó. Việc thành lập đơn vị 101 đã để lại dấu ấn sâu đậm trong quân sử Lực Lượng Đặc Biệt Do Thái.
IV. CÁC CUỘC HÀNH QUÂN ĐÁNG GHI NHỚ
. Trại Tỵ Nạn Palestine:
Theo lời Yoav Gelber, sau một tháng huấn luyện, một toán biệt kích 101 xâm nhập vào dải Gaza trong phần thực tập. Họ tấn công đám cướp Ả Rập nơi trại tỵ nạn Al Burej của người Palestine trong đêm 28 rạng 29 tháng Tám năm 1953, gây tổn thất cho đám cướp khoảng 30 chết, hơn một chục tên khác bị thương, trước khi rút lui về đất Do Thái. Theo lời Azmi Bishara một học giả người Do Thái gốc Palestine, trận tấn công bất ngờ gây thương vong 43 thường dân Palestine trong đó có bẩy phụ nữ và 22 người khác bị thương. (Azmi Bishara làm Dân Biểu trong Quốc Hội (Knesset), bỏ trốn khỏi Do Thái năm 2007 bị nghi ngờ trao tài liệu cho Palestine).
Quân biệt kích 101 chỉ có hai người bị thương. Trận “thực tập” (live exercise) bị các quan sát viên quốc tế lên án, phê phán “Tự do giết người tập thể” (mass murder). Một vị Bộ Trưởng trong nội các chính quyền Do Thái cũng lên tiếng chỉ trích nặng nề.
. Cuộc Thảm Sát Qibya (Qibya Massacre):
Hai tháng sau, đơn vị 101 tham dự trận tấn công làng Ả Rập Qibya nơi phiá bắc khu vực West Bank, phần đất thuộc về Jordan. Trận tấn công này, quân đội Do Thái gây thiệt hại nặng cho đơn vị Lê Dương Ả Rập (Arab Legion) đóng trong làng Qibya. Phiá thường dân Ả Rập có 42 người thiệt mạng, 15 người khác bị thương. Theo sự điều tra của Liên Hiệp Quốc, các xác chết bị trúng đạn đầy người, chết gần cửa nhà và nhiều vết đạn trên cánh cửa. Điều đó chứng tỏ các nạn nhân đang ở trong nhà của họ cho đến khi căn nhà bị cho nổ tung.
Chuyện thường dân bị thiệt mạng, ngôi làng Qibya bị tàn phá gây xúc động trên thế giới, yêu cầu chính quyền Do Thái trả lời vụ “thảm sát”. Chính quyền Do Thái chối cãi, phủ nhận sự kiện, cho rằng người dân Do Thái trong những làng chiến đấu (Kibbutz) gần đó tấn công trả thù. Uri Avnery, chủ bút người sáng lập tạp chí Haolam Hazeh nói rằng, ông ta bị đánh gẫy cả hai bàn tay vì chỉ trích cuộc thảm sát làng Qibya trên tờ báo của ông ta.
Các tân binh tình nguyện phục vụ trong đơn vị 101 phải trải qua giai đoạn huấn luyện ngày đêm, thử thách cam go. Những bài học di hành, định hướng, điạ hình thường băng qua biên giới Do Thái với các nước láng giềng Ả Rập. Đôi khi toán biệt kích “khóa sinh” 101 đụng phải toán tuần tiểu của địch hoặc dân chúng Ả Rập. Điều này đối với cấp chỉ huy đơn vị 101 là chuyện thường... điều quan trọng trong việc huấn luyện. Những cấp chỉ huy trong đơn vị như Baum và Sharon “cố tình” tìm kiếm các “mục tiêu thật” cho khóa sinh thực tập. Các khóa sinh còn được huấn luyện thêm về thể chất, nhu đạo (Judo), cận chiến, các loại vũ khí, mìn và phá hoại.
V. GIẢI TÁN
Vụ thảm sát làng Qibya bị thế giới lên án, ngay cả bên trong Do Thái, nhiều viên chức chính quyền yêu cầu giải tán (“dẹp tiệm”) đơn vị 101. Và chính quyền Do Thái phải làm theo ý kiến của đa số, ra lệnh gải tán đơn vị 101, sát nhập vào đơn vị Nhẩy Dù T’zanhanim trong tháng Giêng năm 1954. Đơn vị Dù được tăng thêm quân số lên đến cấp lữ đoàn, đặt tên là “Tiểu Đoàn 890”, Sharon được đề cử làm chỉ huy trưởng đơn vị này gồm có: tiểu đoàn 869 gốc tiểu đoàn Nhẩy Dù T’zanhanim cũ và tiểu đoàn 101 gốc đơn vị 101 cũ.
Hành quân cấp lữ đoàn, “Tiểu Đoàn 890” được trao nhiệm vụ tấn công vào phòng tuyến quân đội chính quy Ai cập trong dải Gaza trong tháng Hai năm 1955. Đích thân Sharon chỉ huy trận tấn công, cuộc hành quân lấy tên là “Mũi Tên Đen” (Operation Black Arrow). Kết qủa 42 quân nhân Ai Cập thương vong, 36 bị thương, “Tiểu Đoàn 890” chỉ thiệt hại nhỏ, 8 quân nhân tử trận. Đơn vị mới này đảm nhận hầu hết các cuộc hành quân “đặc biệt” trong những năm còn lại của thập niên 1950s.
Trong năm cuối thập niên 1950s, quân đội Do Thái nhận ra rằng thiếu đơn vị biệt kích nhỏ, đơn vị Nhẩy Dù T’zanhanim đã phát triển lên cấp lữ đoàn, không còn thích hợp với các loại hành quân biệt kích. Đó là lý do, Avraham Arnan được lệnh thành lập một đơn vị mới mà sau này rất nổi tiếng Sayeret Matkal trong năm 1958. Đơn vị Dù T’zanhanim mất danh xưng “Lực Lượng Đặc Biệt”, họ thành lập đơn vị biệt kích cho riêng họ (Tương đương Đại Đội Trinh Sát), lấy tên là Sayeret T’zanhanim (Trinh Sát Dù).
Reference:
American University in Bosnia
College of Information Technology
No comments:
Post a Comment