LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT DO THÁI
SAYERET MATKAL
I. LỜI GIỚI THIỆU
Sayeret Matkal (Hebrew: סיירת מטכ"ל, translation: General Staff Reconnaissance Unit) là một đơn vị tinh nhuệ, lực lượng đặc biệt trực thuộc bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Do Thái. Nhiệm vụ chính yếu dành cho đơn vị này là chống lại quân khủng bố, thám thính, thâu thập tin tức tình báo đằng sau phòng tuyến của địch. Trước khi có những vụ khủng bố, Sayaret Matkal thường làm nhiệm vụ trinh sát, lấy tin tức tình báo tác chiến sâu trong đất địch. Sau trận chiến Sáu Ngày, để đối phó với quân khủng bố Palestine, Sayeret Matkal được trao thêm nhiệm vụ giải cứu con tin bị quân khủng bố bắt giữ ngoài lãnh thổ Do Thái (ở ngoại quốc).
Lực Lượng Đặc Biệt Sayeret Matkal được tổ chức theo khuôn mẫu đơn vị “Dịch Vụ Đặc Biệt Hàng Không” (Special Air Service - SAS) quân đội Anh. Lúc mới thành lập, Sayeret Matkal trực thuộc cục Tình Báo, An Ninh Quân Đội, sau đó đặt dưới quyền xử dụng trực tiếp của bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Do Thái.
Trận đột kích chớp nhoáng nổi tiếng nhất của Sayeret Matkal là hành quân “Sấm Sét” (Thunderbolt), còn được gọi là hành quân Entebbe. Trận đột kích “thần sầu” này, Sayeret đã giải cứu hơn một trăm con tin người Do Thái đi chuyến bay của hãng hàng không Air France bị nhóm khủng bố Palestine không tặc, ép bay sang Uganda. Kết qủa trận này, biệt kích Do Thái bắn hạ 52 lính Uganda, tất cả nhóm khủng bố, đổi lại một sĩ quan chỉ huy nhóm xung kích Yonatan Netanyahu cùng ba con tin Do Thái.
Sayeret Matkal được thành lập từ năm 1957 bởi Avraham Arnan (Herling), một cựu sinh viên cổ học Yeshiva (nền giáo dục cổ truyền dựa trên kinh Talmud và Torah cổ của Do Thái) và cũng là một chiến sĩ Palmach (xung kích). Avraham Arnan cũng là cấp chỉ huy đầu tiên của đơn vị đặc biệt này. Ông ta trình lên bộ Tổng Tham Mưu, thành lập một đơn vị bí mật để xâm nhập sâu vào lãnh thổ của địch, thâu thập tin tức tình báo tác chiến cho bộ Tổng Tham Mưu. Lúc khởi thủy, đơn vị “đặc biệt” là một phần trong đơn vị 157 dưới quyền chỉ huy của Arnan. Qua năm sau, Sayeret Matkal tách ra khỏi đơn vị 157, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của bộ Tổng Tham Mưu, trở nên một Lực Lượng Đặc Biệt theo khuôn mẫu của đơn vị SAS Anh quốc.
Binh sĩ tuyển chọn phục vụ trong đơn vị Sayeret Matkal được các hướng đạo sắc dân du mục Bedouin hướng dẫn, huấn luyện kỹ thuật trinh sát, tìm kiếm dấu vết. Cùng với phi đội trực thăng đầu tiên của Do Thái mới thành lập trước đó một năm, quân biệt kích Sayeret Matkal có thể xâm nhập sâu vào lãnh thổ của các quốc gia trong khối Ả Rập.
Năm 1959, một quân nhân tên là Ehud Barak được thâu nhận phục vụ trong đơn vị Sayeret Matkal và sau này trở nên chỉ huy trưởng đon vị “Đặc Biệt” 101, cũng như danh tướng Ariel Sharon, hai nhân vật huyền thoại trong quân lực Do Thái. Một người “ngoại lệ” nữa trong đơn vị 101 là Trung Úy Meir Har Zion (Hebrew:מאיר הר ציון: born 1934) được Tướng “Độc Nhãn” Moshe Dayan khen là chiến sĩ giỏi nhất trong quân lực Do Thái. Không được may mắn như hai danh tướng Ehud Barak, Ariel Sharon, cuộc đời binh nghiệp của Meir Har Zion kết thúc sớm, bị thương nặng và giải ngũ.
II. MEIR HAR ZION
Trung Úy Meir Har Zion sinh năm 1934, thuộc thế hệ thứ hai (Sabra) sinh ra nơi vùng Đất Hứa (Do Thái). Năm 1947 thân phụ ông ta đưa gia đình đến định cư nơi làng chiến đấu (kibbutz) Ein Harod thuộc về hướng bắc Do Thái gần đồi Gilboa (Mount Gilboa). Trong năm đầu lúc mới gia nhập quân đội Do Thái, toán cảm tử dưới quyền Har Zion xâm nhập sâu 40 cây số vào đất Jordan đến thành phố cổ Petra (di tích lịch sử được UNESCO công nhận là một trong những kỳ quan mới của thế giới), để thâu hồi tử thi nhóm thiếu niên Do Thái bị giết.
Năm 1953, Trung Úy Meir Har Zion là một trong những quân nhân thành lập ra đơn vị “huyền thoại” 101, tham dự trận đột đích đầu tiên của đơn vị này vào cuối tháng Tám năm 1953. Mười sáu cảm tử quân Do Thái di chuyển trên hai xe Jeep, hai xe Command Car, được một phi cơ thám thính hướng dẫn, xâm nhập qua tới Iraq, tấn công trại binh người Ả Rập Azakme Bedouin xung quanh một giếng nước ở Al Auja, cách thành phố Tikrit (Iraq) 13 cây số về hướng nam. Quân biệt kích Do Thái đốt phá doanh trại, Tướng Moshe Dayan bay đến quan sát chiến trường, lần đầu tiên gặp Meir Har Zion và ra lệnh tiết kiệm đạn, không được bắn bầy chim kên-kên đang rỉa những xác chết con lạc đà.
Đêm 14 rạng 15 tháng Mười năm 1953, khoảng 65 quân biệt kích 101 tăng cường cho một đơn vị cấp lớn Do Thái tấn công làng Ả Rập Qibya nằm sâu 30 cây số trong khu vực West Bank (lúc đó thuộc về Jordan). Lúc đó Ariel Sharon đang làm chỉ huy trưởng đơn vị 101, Trung Úy Meir Har Zion chỉ huy một trong ba toán quân 101 nằm cản đường tiếp viện của địch từ các làng lân cận, Ni’Lil, Budrus, và Shuqba. Vụ này gây nên vụ thảm sát (massacre) 69 thường dân Ả Rập không võ trang, làng Qibya bị thiêu hủy và đơn vị 101 bị mang tiếng chiụ trách nhiệm (sau vụ này Ariel Sharon bị Tướng Moshe Dayan “đì” tối ta vì ông ta bênh vực đàn em, thuộc cấp). Một lần khác trong đêm 18 rạng 19 tháng Mười Hai, Har Zion chỉ huy hai toán quân biệt kích 101 phục kích một chiếc xe (có lẽ tình báo Do Thái biết trước) trên đường từ Bethlehem đi Hebron, giết chết vị bác sĩ người Li Băng Mansour Awad phục vụ trong đơn vị Lê Dương Ả Rập. Chuyện này làm đương kim Thủ Tướng Do Thái lúc đó Moshe Sharett nổi giận, không cho ông ta biết trước vụ “thanh toán” này. Ba đêm sau, Har Zion chỉ huy một toán bốn người, xâm nhập vào khu vực ngoại ô Hebron đặt bom giết chết hai nhân vật quan trọng Ả Rập và một phụ nữ đang mang bầu.
Năm sau, hôm 26 tháng Năm 1954, tiểu đoàn 890 Nhẩy Dù được thành lập dưới quyền Ariel Sharon. Trung Úy Meir Har Zion được đích thân Sharon tuyển chọn là một trong mười quân nhân trong nhóm “hành động” do chính ông ta chỉ huy, đột kích vào một khu vực gần làng Khirbet Jinba hướng tây nam Hebron (Danh Tướng Sharon nổi tiếng là dám dẫn một toán biệt kích chừng 10 người đi “làm ăn”). Kết qủa quân biệt kích Do Thái giết chết hai binh sĩ Jordan, hai nông dân và hai con lạc đà... Một lần nữa Thủ Tướng Sharett nổi giận, ông ta nghi ngờ... có lẽ đám biệt kích “vô kỷ luật” cũng không xin phép vị Bộ Trưởng Quốc Phòng Pinhas Lavon.
Đêm 27 rạng 28 tháng Sáu 1954, Har Zion là một trong toán biệt kích bẩy người dưới quyền chỉ huy Thiếu Tá Aharon Davidi đột kích bất ngờ doanh trại quân Lê Dương Ả Rập ở Azzun cách làng Qalqilva 13 cây số về hướng đông. Kết qủa ba lính Lê Dương bị giết cùng với một nông gia, Rafi’a Abdel Aziz Omar bị đâm chết vì báo động cho lính Lê Dương. Toán biệt kích Do Thái phải rút lui bỏ lại một người bị thương, Trung Sĩ Yitzhak Jibli. Khi được biết Jibli bị bắt, nằm trong tay địch quân, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Do Thái, Tướng “Độc Nhãn” Moshe Dayan chấp thuận cho đơn vị biệt kích mở các trận phục kích bắt sống tù binh, con tin (để đổi lấy người của phe ta).
Đêm cuối tháng Bẩy rạng 1 tháng Tám năm 1954, Trung Úy Har Zion chỉ huy một toán mười quân nhân biệt kích, bất ngờ tấn công hai lính cảnh sát trong khu vực lân cận Jenin, bắt sống một người. Ngày 30, 31 tháng Tám, Zion tham dự Hành Quân Binyamin 2 dưới sự chỉ huy của Ariel Sharon. Trận này được Thủ Tướng Sharett chấp thuận. Đơn vị biệt kích được chia làm bốn toán, toán chính yếu tấn công ngôi trường học nơi làng Beit Liqya, ba toán còn lại rải xung quanh chận đường tiếp viện của địch. Toán chận đường dưới quyền Har Zion bắn hạ một xe tiếp viện của quân Lê Dương Ả Rập, giết hai địch quân, một bị thương và bắt sống ba tù binh. Kết qủa thương lượng, trao đổi tù binh, Trung Sĩ Yitzhak Jibli được trả về Do Thái ngày 29 tháng Mười năm 1954.
Khoảng giữa tháng Hai năm 1955, cô em gái của Har Zion, Shoshana cùng với anh bạn trai Oded Wagmeister, cả hai 18 tuổi bị giết chết ở Wadi Al Gar. Trung Úy Meir Har Zion cùng với ba chiến hữu trong tiểu đoàn 890 Nhẩy Dù xin giải ngũ (Lo việc cá nhân? Được sự “chấp thuận” của cấp chỉ huy Ariel Sharon? ông này nổi tiếng làm nhiều chuyện “động trời” vì đàn em, thuộc cấp). Ngày 4 tháng Ba, đích thân Ariel Sharon cung cấp vũ khí, lương thực cho bốn quân nhân “giải ngũ”, lái xe đưa họ đến lằn biên giới với Jordan (Armistice line).
Bốn quân nhân biệt kích đã xin giải ngũ, xâm nhập sâu vào đất Jordan 9 cây số đến ngôi làng Wadi Al Gar nơi cô em gái Shoshana bị giết. Họ bắt sống sáu người Ả Rập thuộc sắc dân Jahaleen và Azazme Bedouin đem về đất Do Thái. Bốn nạn nhân bị giết bằng dao găm, một bằng súng, trong số nạn nhân có một thiếu niên 16 tuổi. Người thứ sáu được tha về để báo tin cho người Ả Rập biết số phận của năm người kia (Ăn miếng trả miếng. Câu châm ngôn của người Do Thái là “Mắt đổi mắt. Răng đổi răng”). Sau vụ này, một câu hỏi được nêu lên. Chưa chắc các nạn nhân Ả Rập có dính líu đến cái chết của cô em gái Shoshana? Thủ Tướng đương nhiệm David Ben Gurion (nhiệm kỳ 2, có lẽ bênh vực...) trả lời trước nội các chính quyền Do Thái... Có lẽ các quân nhân Do Thái vì bất đồng ngôn ngữ không hiểu các tù binh... trả lời. Tuy nhiên để trấn an dư luận, Meir Har Zion bị cơ quan an ninh Do Thái bắt giữ hai mươi ngày, anh ta nhận tất cả mọi tội phạm... và được trả về phục vụ nơi đơn vị cũ cùng với các chiến hữu. Cựu Thủ Tướng Sharett nghi ngờ Tướng Moshe Dayan “che chở” chuyện này trong hồi ký của ông ta “Phần đen tối của linh hồn trong kinh thánh đã quay trở lại với đàn con cháu của Nahalal và Ein Harod”. (Nahalal là tên một trong những ngôi làng định cư xa xưa nhất của người Do Thái trong đợt di cư thứ hai về miền Đất Hứa... họ sống rất cực khổ, khai khẩn đất hoang trong khu vực đồng lầy đầy muỗi sốt rét - vđh)
Hành quân Jonathan trong hai ngày 11, 12 tháng Chín năm 1955 do hai đại đội Nhẩy Dù đảm trách, tấn công căn cứ cảnh sát Khirbet Al Rahwa trên đường giữa hai thành phố Hebron và Beersheba, giết chết khoảng 20 binh sĩ, cảnh sát Jordan. Trong trận này Trung Úy Meir Har Zion bị trúng đạn nơi cổ và cánh tay, bác sĩ đã cứu mạng anh ta bằng cách giải phẫu đưa ông thông hơi vào cổ ngay trên chiến trường (tracheotomy). Meir Har Zion được thăng cấp Đại Úy, ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh nhưng bị tàn phế phải từ giã quân đội. Năm 1969, anh ta viết hồi ký về những ngày tháng phục vụ trong Quân Lực Do Thái. Hiện nay ông ta sống lặng lẽ trong một nông trại trên một ngọn đồi nhìn xuống thung lũng Jordan. Ông ta đặt tên cho nông trại là “Ahuzat Shoshana” tên của cô em gái.
III. EHUD BARAK
Meir Har Zion không được may mắn trên đường binh nghiệp. Ehud Barak thăng tiến rất nhanh, tham dự hầu hết các cuộc hành quân biệt kích, lên đến chức vị Tổng Tham Mưu Trưởng năm 1991-1995. Năm 1999, ông ta trở nên vị Thủ Tướng thứ mười của Do Thái. Một trong những cuộc hành quân nổi tiếng Ehud tham dự là hành Quân Isotope, giải cứu con tin bị nhóm khủng bố Tháng Chín Đen không tặc cướp máy bay.
Phi vụ 571 hãng hàng không Sabena, quốc gia Bỉ (Belgium) cất cánh từ Vienna đi Tel Aviv thủ đô Do Thái. Ngày 8 tháng Năm 1972, chiếc Boeing 707 do phi công Reginald Levy người Anh lái bị bốn tên không tặc thuộc tổ chức Tháng Chín Đen người Palestine cướp, đáp xuống phi trường Lod (Sau này đổi tên Ben Gurion, tên vị Thủ Tướng đầu tiên của Do Thái).
Kế hoạch cướp chuyến bay này được Ali Hassan Salameh soạn thảo và do bốn tên khủng bố, hai đàn ông, hai phụ nữ võ trang súng lục giả dạng nhân tình đi du lịch Âu châu, dưới quyền chỉ huy của Ali Taha. Khi chiếc máy bay cất cánh được khoảng hai mươi phút, bốn tên khủng bố bất ngờ tràn vào buồng lái, và tiếp theo là giọng của viên phi công trưởng Reginald Levy “Chúng ta có mấy người bạn... tháp tùng chuyến bay”
Quân khủng bố Tháng Chín Đen đòi yêu sách trả tự do cho 315 tên khủng bố đang bị giam giữ trong các nhà tù ở Do Thái, nếu không được thỏa mãn họ sẽ cho nổ tung chiếc máy bay cùng với hành khách vô tội. Bộ Trưởng An Ninh (Nội Vụ) lúc đó là Tướng Độc Nhãn Moshe Dayan tìm cách thương thuyết (câu giờ) với đám khủng bố, để cho quân đội có thêm thời gian chuẩn bị. Cuộc hành quân giải cứu con tin có tên là “Isotope”.
Chỉ một ngày chuẩn bị, hôm 9 tháng Năm, lúc 4:00 giờ chiều cuộc hành quân Isotope bắt đầu với mười sáu biệt kích quân Sayeret Matkal do Ehud Barak chỉ huy. Trong số biệt kích Sayeret Matkal có mặt Benjamin Netanyahu, cả hai đều là những vị Thủ Tướng tương lai của Do Thái (hiện nay, năm 2011 là Netanyahu). Các biệt kích quân ăn mặc giả làm chuyên viên cơ khí, nhân viên làm việc trong phi trường tiến lại chiếc máy bay đang đậu. Họ nói với quân khủng bố, chiếc máy bay cần coi lại máy móc, rồi bất thần xông vào buồng lái bên trong máy bay. Trong vòng 10 phút, quân biệt kích Sayeret Matkal làm chủ tình hình, giết chết hai tên khủng bố đàn ông, bắt sống hai phụ nữ. Chỉ có ba hành khách bị thương, một người sau đó chết trong bệnh viện. Vị Thủ Tướng đương nhiệm (hiện thời 2011) Netanyahu bị thương trong trận đánh chớp nhoáng này, do đạn của phe ta.
IV. ĐOẠN KẾT
Là một đơn vị “tối mật”, Sayeret Matkal rất có uy tín, ảnh hưởng trong quân đội Do Thái. Trong các trận đánh lớn, các biệt kích quân làm nhiệm vụ xung kích cảm tử, thâu thập tin tức tình báo tác chiến cho Bộ Tổng Tham Mưu. Ngoài ra họ còn được trao cho những nhiệm vụ bí mật khác mà quân đội Do Thái vẫn còn giữ kín không cho biết.
Việc tuyển chọn quân biệt kích Sayeret Matkal rất khó khăn, phải có hồ sơ quân bạ tốt và đức tính cá nhân. Họ được huấn luyện cam go về kỹ thuật biệt kích, nhẩy dù, biệt động, và chống khủng bố. Đơn vị Sayeret Makal có phù hiệu riêng nhưng bị cấm không được đeo vì lý do bảo mật của đơn vị.
V. NGƯỜI CỦA MUÔN NĂM CŨ
Sayeret Matkal đã tạo nên nhiều “huyền thoại”, nhân vật lừng danh trong quân sử Do Thái:
- Uzi Yairi. Cựu chỉ huy trưởng đơn vị. Lữ đoàn trưởng Nhẩy Dù. Tử trận lúc đang nghỉ phép trong Hành Quân Savoy. Lúc 11:00 giờ đêm ngày 4 tháng Ba năm 1975, tám tên khủng bố thuộc Mặt Trận Giải Phóng Palestine (PLO) chia làm hai toán xâm nhập bằng đường biển vào thủ đô Tel Aviv. Quân khủng bố vào đến trung tâm thành phố, nơi khách sạn Savoy, tấn công, ném lựu đạn, bắt giữ con tin. Họ đe dọa chính quyền Do Thái, phải trả tự do cho hai mươi tên khủng bố trong vòng bốn tiếng đồng hồ, nếu không sẽ giết tất cả con tin trong khách sạn. Sáng sớm hôm sau, toán “chống khủng bố” thuộc đơn vị biệt kích Sayeret Matkal xông vào khách sạn, giết chết bẩy tên, bắt sống một. Họ cứu được năm vị khách, tám người khác đã bị quân khủng bố hành quyết. Ba biệt kích quân Sayeret Matkal tử thương trong đó có vị chỉ huy trưởng Uzi Yairi, đang nghỉ phép, gặp “chuyện lớn” phải về đơn vị gấp. Vài tiếng đồng hồ sau, lực lượng an ninh Do Thái bắt giữ thủy thủ đoàn lái chiếc tầu chở đám khủng bố xâm nhập. Vụ khủng bố này do Abu Jihad soạn thảo để trả thù đơn vị Sayeret Makal đã đột nhập vào Beirut, Li Băng trong tháng Tư năm 1973, giết chết ba lãnh tụ của họ (PLO).
- Nechemva Cohen. Một trong những người nổi tiếng trong đơn vị Sayeret Makal và trong quân đội như Barak. Tử trận. Ông ta được xây bức tượng “Tưởng Niệm” trong đơn vị.
- Ehud Barak. Chỉ huy trưởng đơn vị. Tốt nghiệp đại học nổi tiếng Stanford ở Hoa Kỳ, sau này trở nên Tổng Tham Mưu Trưởng và Thủ Tướng của Do Thái.
- Bejamin Netanyahu. Chỉ huy một thành phần trong đơn vị. Tốt nghiệp đại học nổi tiếng MIT, đã từng và đương nhiệm Thủ Tướng Do Thái.
- Iddo Netanyahu. Quân nhân trong Sayeret Matkal. Văn sĩ, chuyên viên quang tuyến. Người em trai út của Thủ Tướng Benjamin Netanyahu.
- Yonatan Netanyahu. Chỉ huy trưởng Sayeret Matkal. Tử trận (người duy nhất) trong Hành Quân Sấm Sét (Thunderbolt), Entebbe, Uganda. Anh trai của Thủ Tướng Benjamin.
- Shaul Mofaz. Chỉ huy phó đơn vị, sau này trở nên Tổng Tham Mưu Trưởng và Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái.
- Moshe Yaalon. Chỉ huy trưởng đơn vị Sayeret Matkal, sau này trở nên Tổng Tham Mưu Trưởng, Bộ Trưởng “Chiến Lược”.
- Danny Yatom. Chỉ huy phó đơn vị. Sau này lên cấp Tướng, giám đốc cơ quan Tình Báo Mossad và nghị sĩ trong Quốc Hội (Knesset).
- Avi Dichter. Quân nhân trong đơn vị. Sau này lên chức giám đốc cơ quan An Ninh Quân Đội Shin Bet, Bộ Trưởng Nội Vụ.
- Daniel M. Lewin. Quân nhân trong đơn vị. Sáng lập công ty Akamai Technologies. Chết trong chuyến bay 11 (ngày 11 tháng Chín). (Khủng Bố September 11)
VI. CÁC HÀNH QUÂN NỎI TIẾNG
- 1963. Hành quân Halutz. Cuộc hành quân biệt kích đầu tiên xử dụng trực thăng Sikorsky H-34 vào bán đảo Sinai. Nhiệm vụ chính cho đơn vị biệt kích là thám sát, lấy tin tức tình báo tác chiến cho cuộc hành quân Shrak Rak sẽ tiếp nối. Tình báo Do Thái muốn phối kiểm tin tức về việc Ai Cập đã đưa một sư đoàn Thiết Giáp và ba lữ đoàn Bộ Binh vào vùng Sinai.
- 1964. Hành quân Shrak Rak. Quân đội Do Thái đã học hỏi được kỹ thuật tác chiến trong sa mạc từ cuộc hành quân này cho trận chiến thắng thần tốc Sáu Ngày năm 1967. Ehud Barak là chỉ huy trưởng đơn vị biệt kích Sayeret Matkal trong cả hai cuộc hành quân kể trên.
- 1968. Hành quân Shock. Được Không Lực yểm trợ, biệt kích Sayeret Matkal phá hủy nhà máy điện và chiếc cầu bắc qua sông Nil trên đất Ai Cập.
- 1968. Hành quân Gift. Phá hủy mười bốn phi cơ dân sự của các hãng hàng không Ả Rập trong phi trường quốc tế Beirut ở Li Băng.
- 1969. Hành quân Orchard 22, Orchard 37. Đột kích phá hoại trạm phát điện cao thế, đài antenna của Ai Cập.
- 1969. Hành quân Bulmst 6. Phối hợp với đơn vị Biệt Hải (Sayretet 13) tấn công pháo đài trên đảo Green (Green Island) của Ai Cập.
- 1969. Hành quân Rooster 53. Được Không Lực yểm trợ, quân biệt kích Sayeret Matkal, đột kích, tháo gỡ dàn radar mới của Ai Cập đem về Do Thái.
- 1972. Hành quân Isotope. Cứu con tin, giết không tặc chuyến bay Sabena 571 trong phi trường Lod, thủ đô Tel Aviv.
- 1972. Hành quân Crate 3. Bắt cóc năm sĩ quan tình báo Syria.
- 1973. Hành quân Spring of Youth. Phối hợp với Biệt Hải (Sayetet 13), xâm nhập Lebanon giết ba lãnh tụ quân khủng bố Tháng Chín Đen (PLO).
- 1973. Trong trận Yom Kippur, biệt kích Sayeret Matkal tăng cường cho lữ đoàn Golani tái chiếm Đồi Hermon từ đơn vị cảm tử Syria. Ngoài ra nhiều toán biệt kích Sayeret Matkal xâm nhập sâu vào đất Ai Cập và Syria, tổ chức phục kích giết cấp chỉ huy của địch.
- 1974. Vụ thảm sát Ma’alot. Biệt kích Sayeret giải cứu các trẻ em học sinh trong một trường học bị bắt làm con tin. Nhiều trẻ em bị thiệt mạng.
- 1988. Biệt kích Do Thái xâm nhập Tunis, Tunisia giết trùm khủng bố Abu Jihad.
Và nhiều cuộc hành quân bí mật khác.
American University in Bosnia
Tuzla, 21 tháng năm 2011
vđh