Khu người Do Thái trong thành phố cổ Jerusalem bị bao vây. Cấp chỉ huy quân tự vệ Ả Rập là Kawukji ra lệnh tấn công, ông ta đinh ninh là quân Ả Rập sẽ tiến vào như chỗ không người trước những cặp mắt khiếp sợ của người Do Thái. Họ không dè đụng phải dân tự vệ Do Thái chống trả quyết liệt, bẻ gẫy đợt tấn công. Kawukji ra lệnh tấn công đợt hai. Đến chiều, quân Ả Rập tổn thất phân nửa, thê thảm rút ra khỏi bãi chiến trường.
Bên ngoài hành lang Jerusalem, lữ đoàn Palmach Hillmen phải làm công việc quá nặng nề, giữ con đường tiếp tế cho Jerusalem. Họ phải tảo thanh những làng Ả Rập dọc theo lộ trình, đến kiệt sức.
- Cũng con đường này, có phải Vua David ngày xưa cũng đánh du kích?
- Nên nhớ, mình đang chiến đấu nơi Samson được sinh ra.
- Nơi thung lũng này, Vua David “đụng” người khổng lồ Goliath!
- Nơi này, Joshua làm mặt trời đứng lại.
Một đoàn xe lớn từ Tel Avid đem đồ tiếp tế đi Jerusalem, để cứu thành phố này đang bị quân Ả Rập bao vây. Lần này nhiệm vụ dành cho lữ đoàn Hillmen, đánh chiếm làng Ả Rập Kastel, được xây dựng trên một thành trì của đạo quân Cứu Thế, nằm trên một đỉnh cao chế ngự con đường chính.
Trận này được ghi vào lịch sử là trận tấn công đầu tiên của Do Thái trong trận chiến dành độc lập. Quân lữ đoàn Hillmen đánh một trận đẫm máu, đánh cận chiến trong những giao thông hào trước khi chiếm được làng Kastel.
Sau khi phác họa chi tiết kế hoạch, Ari để cho David tổ chức đơn vị đặc nhiệm, còn chàng đi lên Gan Dafna. Ari đến làng vào lúc chiều tôi và triệu tập cấp tốc một buổi họp trong hầm chỉ huy. Zev, Jordana, bác sĩ Lieberman, và Kitty Freemont đều có mặt.
- Trong làng này có 250 trẻ em dưới 12 tuổi, cần được di tản tối mai.
Nhìn qua những khuôn mặt ngạc nhiên, chàng nói tiếp.
- Một đơn vị đặc nhiệm đã tập họp trong làng Yad El. Tối nay, 400 đàn ông từ các làng định cư khác dưới sự chỉ huy của David sẽ leo lên phiá tây ngọn núi. Nếu không bị địch phát giác, họ sẽ có mặt ở đây lúc rạng đông. 250 người lớn sẽ cõng trên lưng mỗi người một em, 150 người còn lại sẽ làm thành phần an ninh.
Zev Gilboa đứng lên.
- Ari, tôi vẫn chưa hiểu rõ. Anh định đem 250 trẻ em xuống chân núi và ban đêm?
- Đúng vậy!
- Đường núi rất khó đi, ngay cả ban ngày cũng đã khó.
Bác sĩ Lieberman tiếp lời.
- Cõng thêm một đứa trẻ nữa, dễ bị xẩy chân rớt xuống vực.
- Chuyện đó phải chấp nhận.
- Còn phải đi ngang qua làng Ả Rập Abu Yesha nữa.
- Đồng ý phải đề phòng. Mình phải làm... Tôi không muốn nghe ý kiến nữa!
Đúng như kế hoạch, sáng sớm hôm sau, 400 đàn ông Do Thái đến làng Gan Dafna. Ari ra ngoài gặp họ, đem nước, thức ăn ra tiếp tế. Tất cả phải nằm trốn bên ngoài để tránh cặp mắt theo dõi của quân Ả Rập.
Đúng sáu giờ kém mười phút, còn bốn mươi phút trước khi mặt rời lặn. Kế hoạch bắt đầu. Các trẻ em di tản được cho ăn sớm, uống thuốc ngủ pha sẵn vào sữa. Sáu giờ bốn mươi lăm phút, Jordana Ben Canaan cùng với tất cả các trẻ em còn lại ra ngoài tuyến phòng thủ, đề phòng quân Ả Rập xâm nhập.
Hai mươi lăm nhân viên (thầy giáo, y tế v.v...) mặc quần áo ấm cho các trẻ em lúc đó đã ngủ say, và dùng băng keo dán miệng lại sợ các em khóc trong giấc ngủ. Các đàn ông Do Thái xếp hàng lên nhận lãnh mỗi người một em. Trong làng đã làm sẵn dây cột chặt em nhỏ vào lưng người đàn ông để anh ta được rảnh đôi tay, xử dụng vũ khí hoặc vạch cây rừng trong lúc di chuyển.
Đúng tám giờ rưỡi tối, mọi người đã sẵn sàng sau khi kiểm soát lại lần chót. Ari dẫn đấu toán bảo vệ đi trước và 250 người đàn ông với “đồ trang bị” trên lưng theo sau. Những người còn lại đứng trước cổng làng trong yên lặng. Họ chỉ biết cầu nguyện và đợi tin tức kết quả vào sáng hôm sau. Kitty còn đứng lại một mình nơi cổng làng Gan Dafna, nhìn lên bầu trời.
- Đêm nay sẽ là một đêm dài. Kitty. Bà nên đi vào kẻo bị cảm lạnh.
- Ừ ... Đêm nay sẽ dài hơn mọi đêm.
Jordana mời Kitty vào phòng tâm sự. Kitty có vẻ lo âu.
- Khi nào họ mới qua khỏi làng Ả Rập Abu Yesha?
- Có lẽ nửa đêm... Nếu mọi chuyện êm xuôi... Mọi chuyện nằm trong tay Thượng Đế.
- Tôi xin phép qua phòng bác sĩ Lieberman để xem họ có tin gì không?
Nửa đêm, rồi một giớ sáng. Kitty ngồi bật dậy trên ghế bố, nàng vừa trải qua cơn ác mộng. Quân Ả Rập đuổi theo đoàn người, những tiếng thét man rợ, những lưỡi gươm sáng loáng vung lên tỏa ánh thép. Đoàn bảo vệ bị giết, quân Ả Rập bắt tất cả các trẻ em, và họ đào một hố rộng lớn để chôn sống bọn trẻ...
Rồi nàng để ý nghe, có tiếng súng nổ xa xa. Rõ ràng tiếng súng từ hướng làng Abu Yesha, chứ không phải cơn ác mộng. Kitty xọc đại vào đôi dép, bước vội ra cửa. Jordana đang đứng ngay cửa, ôm lấy Kitty Freemont.
- Để tôi đi.
- Đừng! Không nên...
- Chúng nó giết các trẻ em của tôi! Quân sát nhân, giết người!
Kitty vừa gào lên, vừa đẩy Jordana qua một bên, nhưng cô em gái Ari, chỉ huy trưởng Palmach trong làng quá khoẻ, đẩy Kitty ngã xuống sàn.
- Bình tĩnh lại. Đó là tiếng súng của Zev Gilboa, bắn đầu bên kia làng Abu Yesha để đánh lạc hướng quân Ả Rập.
- Cô nói thật không?
- Đúng như vậy! Tôi thề là đúng như vậy.
Jordana đỡ Kitty dậy, nàng gục đầu vào vai Jordana nức nở rồi òa lên khóc lớn. Được một lúc Kitty nói với Jordana.
- Dov và Karen sắp hết phiên gác để tôi nấu ít nước trà.
Hai giờ sáng, rồi ba giờ. Mọi người ngồi trong hầm chỉ huy, thức trắng đêm nghe ngóng tin tức. Năm giờ mười lăm phút, mọi người ra khỏi hầm, vận động chân tay, thở lớp không khí trong lành buổi sớm mai. Mọi người bước ra cổng nhìn về hướng làng Yad El dưới chân núi. Một người bỗng chỉ tay... về hướng có ánh đèn chớp.
- Nhìn kìa.
- Gì vậy?
- Aùm hiệu... X1416...
- Họ đến nơi đến chốn an toàn. Jordana phiên dịch ám hiệu cho mọi người cùng nghe.
Bốn hôm sau khi các trẻ em dưới 12 tuổi đã an toàn trong làng Yad El. Ari nhận được báo cáo rằng, viên chỉ huy Ả Rập đã rút nửa quân số ra khỏi làng Abu Yesha, chàng đoán làng Gan Dafna sắp bị tấn công.
Ari lấy thêm được hai mươi Palmach từ khắp nơi trong vùng Galilee, lại trèo lên núi đến Gan Dafna, lập bộ chỉ huy. Trong làng Ari có tất cả 40 tay súng Palmach, khoảng 30 nhân viên hành chánh có thể cầm súng được. Đám trẻ em còn lại dưới sự chỉ huy của Jordana khoảng 200 em. Về vũ khí, trong làng Gan Dafna chỉ có năm mươi khẩu súng cổ lỗ sĩ, vài trăm lựu đạn nội hoá, bom xăng chế biến, và một súng chống chiến xa cũ của Hungary với năm viên đạn.
Tình báo cho biết, địch quân dưới quyền Mohammed Kassi có 800 quân tự vệ, vô số đạn dược, và pháo binh yểm trợ, thêm vài trăm tự vệ quân Ả Rập đến từ làng Aata và các làng thù nghịch Ả Rập dọc theo biên giới Lebanon.
Ari ra lệnh cho Zev Gilboa tuần thám trong khu vực gần trại Esther, để kịp thời báo động những kế hoạch chuyển quân của địch. Đến Gan Dafna được ba hôm, một thông tín viên đến làng thông báo cho Ari biết rằng quân của Kassi gần 1000 tên đã rời trại Esther di chuyển xuống đồi. Ari ban lệnh báo động, hai phút sau tất cả mọi người, kể cả trẻ em Do Thái đã vào vị trí chiến đấu.
Một ít lâu sau, những cái đầu Ả Rập nhô lên, rồi quân Ả Rập xuất hiện đông đảo. Họ dừng lại nhìn vào trong làng một cách ngờ vực... sao mà quá im lặng, không một bóng người. Từ trên đài cao trong trại Esther, Mohammed Kassi dùng kính viễn vọng quan sát, mỉm cười... Kỳ này nhổ sạch đám Do Thái. Một tiếng súng đại bác nổ vang thay lệnh tấn công.
Bên trong làng Gan Dafna, mọi người vẫn ngồi yên dưới giao thông hào. Họ có thể nghe được tiếng Ả Rập hò hét bên ngoài, nhưng vẫn bình tĩnh đợi lệnh. Sau khi đánh võ mồm đe dọa, rồi như nổ bùng ra, bọn Ả Rập hò hét chạy trên con đường vào cổng chính Gan Dafna. Zev Gilboa nơi tuyến đầu, vẫn đợi cho đến khi bọn Ả Rập vào đến bãi mìn phòng thủ, chàng đưa lá cờ mầu xanh lên cho Ari bấm nút cho nổ mìn.
Hai mươi qủa mìn nổ chấn động núi rừng, quân Ả Rập sống sót nhẩy qua một bên chạy vào khu vườn nho. Ari đã tiên đoán trước, dàn sẵn 40 Palmach, hai khẩu đại liên và bom xăng, tiêu diệt thêm một mớ quân thù. Quân Ả Rập vẫn tiếp tục đổ thêm vào, Ari cho lệnh Palmach rút về phiá sau, nhường bãi chiến trường cho đợt hai.
David Ben Ami chờ cho địch đến gần, 50 thước, 40 thước... 10 thước, chàng ra lệnh khai hỏa khẩu súng chống chiến xa cũ kỹ, bắn gục đợt xung phong đầu... Khẩu súng cũ kỹ chỉ bắn được ba phát, nòng lìa khỏi súng, xong nhiệm vụ, giết được khoảng 200 tên giặc cuồng tín. Đợt cuối cùng còn khoảng hơn một trăm tên đụng vào phòng tuyến của trẻ em dưới sự chỉ huy của Jordana...
Trận chiến kết thúc. Hơn một nửa quân Ả Rập bị giết, người Do Thái chỉ mất 24 người gồm: 11 thanh niên Palmach, 3 thanh nữ Palmach, 6 nhân viên giảng huấn và 4 trẻ em. Phiá Do Thái lấy được một số lượng súng ống gấp mười lần số vũ khí của họ làm quân Ả Rập không dám tấn công nữa. Kitty bước vào bộ chỉ huy trao cho Ari một ly rượu, chàng hỏi.
- Các trẻ em bị thương ra sao?
- Có hai em bị thương nặng sợ không qua khỏi, những đưá khác không bị nặng.
Ari ngồi buồn bã vì mất đi Zev Gilboa, trong lúc hăng say truy kích địch. Bị thương không chạy được, Zev “cưa” qủa lựu đạn cuối cùng với quân thù.
- Đây là những kỷ vật của Zev. Kitty đưa cho Ari.
- Người dân trong các làng chiến đấu kibbutz không có gì làm của riêng, kể cả bản thân. Cả cuộc đời dành cho lý tưởng.
- Tôi thích Zev. Có lần chàng thố lộ... chỉ mong được về làng cũ sống bên vợ làm một người chăn cừu tầm thường... Vợ Zev có lẽ muốn giữ những kỷ vật này của Zev... Nàng sắp có thêm đứa nữa.
Quân Ả Rập xiết chặt vòng vây Jerusalem. Lữ đoàn Hillmen bị tổn thất gần hết sau những trận đánh mở đường, giữ đường vào thành phố nơi hướng nam. Ông trùm Avidan táo bạo mở một ngõ khác qua ngả Latrun, nhiệm vụ này được giao cho David Ben Ami, em của Nahum một nhân vật quan trọng trong Maccabee sau khi cả hai nhân vật tối quan trọng Akiva và Ben Moshe chết trong trận tấn công nhà tù Acre.
Cũng như ông anh Ari, Jordana là một cô gái Do Thái rất can đảm, nàng trở về làng Gan Dafna sau chuyến đi Tel Aviv nhận lệnh. Kitty để ý có điều gì không vui, lo lắng bồn chồn. Kitty nói Jordana ngồi xuống, khẽ hỏi.
- Có chuyện gì vậy, Jordana?
- Không hiểu sao... Tự dưng tôi không còn nghe được gì nữa, có chuyện chảng lành đi xuyên qua tim tôi...
- Nói tiếp đi, Jordana. Tôi ở bên cô.
- Tôi nghe tiếng David kêu thét lên...
- Vô lý! Tại cô lúc nào cũng lo quá, nên về phòng nằm nghỉ ngơi.
Ba hôm sau, Kitty bước vào phòng Jordana, nàng đang bận bịu với đống giấy tờ ngổn ngang trên bàn. Cả hai không nói một lời khỏang vài phút, rồi Jordana ngẩng lên.
- David chết rồi!
- Sao cô biết?
- Ari vừa báo tin... Chết như thế nào vẫn chưa biết. Ari chỉ nói David chỉ huy một đơn vị gồm Palmach, Maccabee, và Haganah tấn công phá vòng vây của địch vào thành phố cổ Jerusalem. Đó là một trận tấn công tự sát.
Kitty trở về phòng, ngồi ôm mặt khóc. Những người bạn thân thương, những nhân vật chính trong chuyến Exodus lần lượt ra đi. Zev Gilboa chết ở Gan Dafna, Joab Yarkoni chết trong làng Safed... David Ben Ami chết dưới chân bức tường bao quanh thành phố cổ Jerusalem... Hỡi Thượng Đế có thực sự yêu thương dân Do Thái không!
Một tháng sau khi David tìm ra con đường vào khu phố cổ Jerusalem. Con đường “Burma road” qua cứ điểm Latrun được hoàn tất. Đoàn xe tiếp tế vào đến bên trong Jerusalem. Thành phố này sẽ không bao giờ bị vây nữa.
X. VỚI ĐÔI CÁNH ĐẠI BÀNG.
Barak Ben Canaan đã đạt đến 85 tuổi, lần này ông ta thực sự về hưu, về sống nơi làng Yad El nơi ông lập ra. Cuộc đời còn lại Barak Ben Canaan dành cho bà vợ Sarah. Sự vui sướng của ông ta không đền bù được cho những buồn phiền hai người con phải gánh chịu. Jordana vẫn chưa quên hình ảnh David Ban Ami. Sau trận chiến dành Độc Lập, Jordana qua Pháp sống ít lâu, sau đó quay trở lại viện đại học Hebrew, trong lòng nàng vẫn trống vắng. Ari cũng biến mất vào sa mạc Negev, Barak biết nỗi buồn của người con trai.
Sau ngày sinh nhật thứ 85 ít hôm, Barak cảm thấy đau nơi dạ dầy, mặc dầu Sarah đã nhiều lần khuyên chồng đi khám bác sĩ, nhưng ông viện đủ lý lẽ. Barak nhận được cú điện thoại mời cả hai vợ chồng đến Haifa để ăn mừng ngày lễ Độc Lập năm thứ ba, và sẽ được mời ngồi nơi hàng ghế danh dự. Nhân tiện Barak vào khám bệnh trong một bệnh viện. Bác sĩ cho biết là ông bị ung thư.
Nhận được tin cha, Ari xin phép trở về làng Yad El gấp. Chàng ôm lấy người cha.
- Thưa Bố. Được tin con xin phép về ngay.
- Ari... Sau con không đưa quân về tham dự diễn binh hôm lễ Độc Lập?
- Quân Ai Cập nhòm ngó Nitzana, nên đơn vị con phải đề phòng.
Barak lặng lẽ nhìn khuôn mặt cứng rắn của người con, đôi giòng lệ chẩy dài xuống đôi gò má già nua. Ari quay mặt ra chỗ khác.
- Bố được hưởng hạnh phúc mấy năm vừa qua. Không như các con... Bố ra đi không được vui nếu con và Jordana vẫn chưa được vui sướng trong lòng. Ari. Họ nói với Bố rằng, con có thể lên làm Tham Mưu Trưởng Lục Quân, nếu con ra khỏi vùng sa mạc Negev.
- Vẫn còn nhiều vấn đề trong sa mạc Negev. Bọn Ai Cập lập ra những nhóm Fedayeen (Tháng Chín Đen), vượt biên, cướp của giết người nơi những ngôi làng dọc theo biên giới.
Hôm sau, Ari nâng ông Bố ra xe, đi lên đồi Tel Hai, nơi mà ông cùng với người em Akiva băng qua khi về Palestine, hơn nửa thế kỷ trước. Đứng trước bức tượng sư tử đá với hàng chữ “Điều sung sướng được chết cho một quốc gia”. Barak lặng yên nhìn ngắm cảnh vật xung quanh, xuống thung lũng Huleh. Hai hôm sau Barak Ben Canaan ra đi trong giấc ngủ bình an.
Trong giai đoạn cuối của trận chiến Độc Lập, Dov Landau gia nhập quân đội Do Thái và tham dự hành quân Ten Plagues chống lại quân đội Ai Cập. Một lần nữa Dov chứng tỏ lòngï can đảm, được Ari tin dùng, giữ lại làm việc trong bộ chỉ huy. Sau đó quân đội Do Thái gửi Dov Landau đến học trong viện Kỹ Thuật Haifa. Dov cũng là một sinh viên xuất sắc, anh chàng này, nhúng tay vào chuyện gì cũng vượt khả năng hơn người, chỗ nào cũng “Số 1”.
Năm Dov Landau lên 21 tuổi, chàng đã được thăng cấp Đại Úy, chỉ huy một đơn vị Công Binh, tương lai đầy hứa hẹn. Dov còn được gửi theo học trong Trung tâm Nghiên Cứu Weizmann ở Rehovot.
Sau trận chiến, Karen cũng giã từ Gan Dafna, gia nhập quân đội. Nàng được huấn luyện về ngành nữ trợ tá, chuyên lo về trẻ em. Karen định noi gương Kitty Freemont, thỉnh thoảng được phép vài ngày, nàng quá giang xe đi Jerusalem thăm Kitty hoặc đi Haifa thăm Dov.
Sau khi được huấn luyện xong tại Trung Tâm Nghiên Cứu Weizmann, Dov được nghỉ phép vài ngày trước khi đi trở lại thung lũng Huleh làm việc trong một dự án về nước. Dov quá giang xe đi Nahal Midbar thăm Karen trước khi trình diện nhiệm sở.
- Ồ Dov!
- Anh nhớ em quá xá, đến chết được!
Karen đang làm phiên gác (mọi người đều phải làm nhiệm vụ tác chiến), bỏ khẩu súng dựa vào tường. Hai người ôm lấy nhau.
- Anh có tin mừng. Như anh đã hứa... Em sẽ hãnh diện vì anh.
- Chuyện gì nữa đây?
- Họ gửi anh lên làm việc nơi thung lũng Huleh cho đến cuối mùa hè, sau đó sẽ cho anh qua Hoa Kỳ học trong Massachusetts Institute of Technology (MIT).
Karen mỉm cười nhìn Dov.
- Thích quá! Dov! Em rất hãnh diện...
Một đêm quan trọng hơn tất cả những đêm khác trong phong tục, tôn giáo của người Do Thái. Đó là đêm Passover. Cực điểm của lễ Passover là Seder (Bữa tiệc tự do) để tạ ơn cho sự tự do, niềm hy vọng cho những ai chưa có. Cho những kẻ bị lưu đầy, bị phân tán, trước sự hồi sinh của quốc gia Do Thái. Seder luôn luôn kết thúc bằng câu: “... Năm tới trong Jerusalem”.
Bữa tiệc Seder năm nay tại nhà Ari Ben Canaan trong làng Yad El, cũng nhỏ thôi nhưng bà Mẹ sarah vẫn chuẩn bị hàng tháng trời cho bữa tiệc thêm thịnh soạn. Dov đã có mặt, đang nói chuyện với Kitty Freemont, cựu Tướng Sutherland cũng đến chung vui. Cánh cửa mở toang ra, Jordana về tới lên tiếng chào tất cả mọi người, rồi gọi Mẹ.
- Chào tất cả mọi người. Mẹ ơi, con đem về một điều ngạc nhiên.
Bà sarah đang làm việc trong bếp vội chạy ra, đúng lúc Ari bước qua cửa.
- Ari. Sara vừa nói vừa rút khăn tay lau nước mắt vì vui sướng. Bà trách yêu cô con gái Jordana.
- Sao con không báo tin, Ari sẽ về thăm nhà năm nay!
Ari đến bắt tay từng người.
- Chào Kitty. Cứ tự nhiên như người trong nhà!
- Chào anh Ari.
Dov Landau bước lại, đưa tay bắt, chàng không còn là đứa trẻ 17 tuổi nữa.
- Chào Chuẩn Tướng Ben Canaan.
- Chào Dov. Tôi nghe nói chú sẽ đem nước đến vùng sa mạc.
- Vâng. Chúng tôi làm việc rất hăng say.
Ari đến chào Tướng Sutherland.
- Chào Thiếu Tướng.
- Tôi rất vui mừng được gặp lại anh.
- Khu vườn của Thiếu Tướng độ này ra sao?
- Ô! Mẹ của anh cho tôi những khóm hoa hồng rất đẹp. Anh phải đến thăm tôi trước khi trở về nhiêm sở.
- Tôi sẽ cố gắng.
Chỉ còn lại Ari và Kitty Freemont, Ari để ý nàng đẹp hơn bao giờ. Ari lên tiếng.
- Karen năm nay có về chung vui với chúng ta không?
- Có chứ! Cô ta sẽ về đến bất cứ lúc nào.
- Mình ra ngoài đi bộ cho thoáng.
- Trời hôm nay tốt, mình ra ngoài nói chuyện...
Hai người yên lặng đi dạo quanh vườn, Kitty chợt hỏi.
- Tình hình lúc này ra sao?
- Lúc nào cũng vậy... Mãi mãi cũng vậy. Người Ả rập vẫn khuấy phá thường xuyên, nên lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác.
- Tôi vẫn lo cho Karen, làm việc trong giải đất Gaza... Nahal Midbar.
- Ồ! Chỗ đó ghê gớm... Bọn Ả Rập quấy rối không ít.
- Anh có thấy Dov! Thiếu Tá Dov, anh ta trở nên một người đàn ông giỏi, có thể bao bọc cho Karen.
- Ừ! Chàng ta giỏi lắm.
- Thôi mình nên vào trong nhà. Tôi muốn có mặt để đón Karen, vả lại có mấy em định đến thăm tôi.
Cả buổi sáng lẫn buổi chiều, khách ra vào nhà Ben Canaan không ngớt. Nhiều trẻ em đến từ những làng định cư xa xôi đến thăm Kitty, chỉ để gặp nàng ít phút. Có em đem theo vợ hay chồng. Tất cả đều phục vụ trong quân đội Do Thái. Dân làng Yad El đến thăm xã giao Ari khi nghe nói chàng về tới.
Đến xế chiều, khách thăm viếng đã thưa thớt. Họ phải lo bữa Seder cho riêng họ. Vẫn chưa thấy bóng dáng Karen. Kitty trách.
- Có chuyện gì xẩy ra cho cô ta đây? Ít nhất cũng gọi điện thoại cho biết.
Tướng Sutherland đáp lời.
- Hôm nay là ngày lễ lớn, tổng đài điện thoại rất bận. Không phải ai cũng gọi được.
Ari an ủi.
- Để tôi vào bộ chỉ huy làng, lấy quyền ưu tiên gọi cho kibbutz của Karen hỏi xem cô ta đâu?
Bà mẹ Sarah đã chuẩn bị xong xuôi, mời tất cả mọi người vào phòng ăn. Ari sau khi gọi cú điện thoại, chậm chạp bước vào. Mọi cặp mắt nhìn vào Ari, chàng muốn nói nhưng chỉ cắn răng. Kitty lên tiếng.
- Karen! Cô ta đâu?
Ari yên lặng cúi đầu.
- Karen đâu?
- Karen chết rồi. Cô ta bị bọn khủng bố Ả Rập Fedayeen giết đêm qua.
Kitty thét lên một tiếng rồi ngã xuống sàn nhà, ngất xỉu.
Kitty mở mắt ra, trước mặt là Jordana và Tướng Sutherland, nàng lại ôm mặt khóc.
- Cưng của tôi! Cưng của tôi! Karen mất rồi!... Karen mất rồi!
- Nếu được chết thay cho Karen, tôi chấp nhận. Jordana cũng khóc.
Tướng Sutherland vỗ vai Kitty.
- Kitty, nằm xuống nghỉ một chút. Nằm nghỉ đã.
- Không tôi phải ra gặp Dov.
Nàng trông thấy Dov đang ngồi một mình trong một góc phòng, hai tay ôm lấy đầu. Kitty bước lại ôm lấy chàng ta. Kitty vẫn còn khóc.
- Dov! Cưng của tôi.
Bàn tiệc vắng tanh, thức ăn trên bàn đã nguội. Chẳng ai còn lòng dạ để ăn, mọi người ôm nhau khóc, cả nhà đều khóc, cho đến khi cạn nước mắt. Jordana nói với Kitty.
- Ari ngồi một mình trong căn nhà kho. Bà đi mời anh ta trở lại đây.
Kitty đi vào trong nhà kho, giữa ngọn đèn dầu leo lét. Ari đang ngồi quay lưng ra cửa, nàng bước đến sau lưng đặt tay lên vai chàng.
- Ari. Anh phải vào để mọi người cùng ăn Seder.
Ari từ từ quay lại ngước lên. Kitty lui lại một bước, nhìn con người “thép”. Ari gục đầu vào giữa đôi bàn tay. Kitty khẽ lên tiếng.
- Ari... Mọi người đang đợi anh để dự bữa Seder.
- Suốt cuộc đời tôi... cả cuộc đời... Tôi phải chứng kiến kẻ thù cướp đi những người thương yêu... Họ đã ra đi... tất cả đã ra đi.
- Ari... Ari.
- Tại sao chúng ta đem trẻ con về đây... để sống trong cảnh điạ ngục. Tại sao chúng giết đi cô gái đáng yêu... Một nàng tiên... Tại sao... Tại sao chúng giết nàng...?
Ari cố gắng đứng dậy. Chàng đưa tay lên đập nhẹ vào đầu.
- Hỡi Thượng Đế! Tại sao họ không để chúng tôi yên! Tại sao họ không để chúng tôi sống.
Bỗng Ari dừng lại, cả thân hình to lớn đồ sộ dường như đã hết sinh lực, chàng run lẩy bẩy. Kitty không thể tưởng tượng một người hùng trước mắt nàng.
- Ari... Mình phải vào... Mọi người đang đợi.
Ari chợt ngã khụy xuống, ôm lấy eo Kitty. Chàng khóc lần đầu tiên trong đời. Kitty ép đầu Ari vào bụng nàng, đưa tay lên vuốt tóc chàng. Ari nói qua tiếng khóc.
- Xin đừng bỏ anh.
Kitty dìu Ari bước vào phòng, chàng từ từ bước lên chiếc ghế trước đây dành cho ông Bố Barak. Tướng Sutherland vỗ vai Ari.
- Tôi là người lớn tuổi nhất ở đây, xin được phép đọc lời kinh cho bữa tiệc Seder.
- Rất lấy làm vinh dự.
Tướng Sutherland bước lên ngồi vào chiếc ghế “trưởng gia đình”. Mọi người mở bài kinh Haggadah ra. Tướng Sutherland gật đầu, ra dấu cho Dov. Dov Landau, cố gắng để khỏi nghẹn họng và bắt đầu đọc. “Tại sao đêm nay khác với tất cả mọi đêm trong năm? Đêm nay khác bởi chúng ta ăn mừng giây phút quan trọng nhất trong lịch sử của dân tộc chúng ta. Đêm nay chúng ta mừng chiến thắng đã vượt ra khỏi vòng nô lệ đến bờ tự do”.
No comments:
Post a Comment