ĐƠN VỊ THƯỢNG HẠNG BẢO VỆ QUỐC GIA
(Phần 1: THỜI GIAN ĐẦU 1948-1966)
         Về điạ dư, Do Thái là một quốc gia rất nhỏ trên thế giới. Mặc dầu đã  độc lập gần 50 năm, quốc gia này vẫn bị bao vây bởi khối Ả Rập thù  nghịch. Để bảo vệ đất nước, cần phải có một lực lượng quốc phòng lớn,  lúc nào cũng đặt trong tình trạng báo động. Điều này có nghĩa, tất cả  mọi người dân Do Thái đều phải phục vụ trong quân đội. Đối với các nhà  lãnh đạo quốc gia, chuyện đó không thể xẩy ra trong một nước tân tiến.  Do đó trên phương diện chiến lược, Do Thái dựa trên căn bản là phải  chống đỡ được một trận tấn công bất ngờ của quân thù. Sự phòng vệ này  dựa trên một lớp phòng vệ mỏng do đội quân tại ngũ chống đỡ, được sự hỗ  trợ mạnh mẽ bởi một đơn vị rất đáng tin cậy, đó là Không Lực Do Thái.
I. VÀO CHUYỆN
         Đầu năm 1985, không lực Syria báo động. Người Do Thái đã rút đi khỏi  những tiền đồn ở Lebanon mà Do Thái đã chiếm được trong trận chiến năm  trước đó. Để lấp vào khoảng trống, Do Thái vẫn có những phi tuần bay  thám thính trên bầu trời Lebanon dọc theo biên giới Syria. Ba năm sau  bài học trong trận chiến Lebanon đđược quân đội Syria nghiên cứu lại vai  trò quan trọng của không lực trong việc làm chủ bầu trời vùng Trung  Đông.
         Tổng thống Syria Assad ra lệnh cho không lực “Phải tấn công những phi  cơ Do Thái bay trên bầu trời Lebanon. Cho bọn chúng nó biết rằng đó là  điều nguy hiểm.”
         Một buổi sáng, hai cặp phản lực cơ Do Thái bay với tốc độ cao lên hướng  bắc, ra khỏi không phận quốc gia. Các đài kiểm soát không lưu Syria  được báo động ngay tức khắc.
         Mấy cặp phi cơ ngăn chặn Syria bắt đầu xuất hiện trên dàn radar của Do  Thái, tốc độ của các phi cơ này chứng tỏ địch đã sẵn sàng cho trận không  chiến. Khi các phản lực cơ Do Thái qua khỏi biên giới Lebanon, mấy  chiếc MIG của Syria từ trên cao bay vòng qua hướng tây để ngăn chặn.
         Với cao độ trên 10 ngàn dặm, tốc độ siêu âm (supersonic), những người  con trai của tổ quốc sẽ quyết định số phận của trận không chiến. Họ  không nhìn thấy phi công địch cũng như phi cơ, chỉ là một chấm xanh nhỏ  trên màn ảnh radar. 
         Phía Do Thái khai hỏa một hỏa tiễn, tiếp theo là một tiếng nổ từ một  khoảng cách xa. Thêm một hỏa tiễn nữa được bắn đi và thêm một tiếng nổ  nữa trên bầu trời. Hỗn loạn cùng với những tiếng la thét trên hệ thống  truyền tin của Syria. Các phi công Syria kinh hoàng mục kích hai viên  phi công bạn bị bắn nổ tung trên bầu trời, họ bẻ lái qua hướng khác, bay  ra khỏi vùng không chiến. Trong trung tâm truyền tin Do Thái, mọi người  mỉm cười thở ra nhẹ nhõm.
        Phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Do Thái đọc bản tin số 186/85 như sau:
         “Các phi cơ Syria cố tình ngăn chặn chiến đấu cơ của chúng ta ngày hôm  nay, lúc 10:00 giờ sáng. Sau vài lần qua lại, trận không chiến đã xẩy ra  và kết quả hai phản lực cơ MIG của họ bị bắn rơi. Các phi cơ của ta trở  về an toàn sau khi thi hành xong nhiệm vụ. Ngày 9 tháng 11 năm 1985 lúc  13:15 giờ.”
II. TRẬN CHIẾN ĐỘC LẬP 1947-1949
Ngày  15 tháng 5, 1948. Mahmoud Baraka, một phi công trong không lực Ai Cập  cất cánh từ một phi trường ở El Arish, hướng về Tel Aviv. Phi tuần gồm  bốn chiếc Spitfires là một món qùa của người Anh tặng cho Ai Cập. Loại  phi cơ chiến đấu này, bay với cao độ trung bình rất bảo đảm. Các phi  công Ai Cập không phải lo súng phòng không cũng như phi cơ ngăn chận của  địch. Viên phi công phi tuần trưởng được lệnh bay đến thả bom nhà máy  điện trong thủ đô Tel Aviv của quốc gia mới hồi sinh Do Thái. Các phi  tuần Ai Cập khác đã tấn công phi trường Sde Dov, căn cứ không quân duy  nhất của Do Thái. Họ báo cáo đã hoàn toàn tiêu hủy phi trường này và  không nhớ rõ có tiếng súng phòng không của địch bắn trả lại hay không.
         Phi trường Sde Dov bị bỏ hoang trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, phi đạo đã  bị cát che phủ. Những chiếc máy bay bị tiêu hủy thuộc về câu lạc bộ Bay  (Flight Club), có khoảng mười lăm phi công thiếu kinh nghiệm. Nhóm này  trước đó xử dụng phi trường quốc tế Lod, chỉ có ba chiếc máy bay nhỏ,  sau này trở thành nền móng cho Không Lực Do Thái. Sau ngày 29 tháng 11  năm 1947, Liên Hiệp Quốc phân chia nước Do Thái, phi trường Lod nằm  trong khu vực thù nghịch Ả Rập nên phải di tản đi đến phi trường bỏ  hoang Sde Dov.
         Khoảng 7:30 sáng, Mahmouh Baraka trên đường bay đến nhà máy phát điện  để thả bom. Viên phi công Ả Rập rất tự tin, đợt đầu sẽ thả bom tiêu hủy  nhà máy, sau đó thả truyền đơn, đe doạ dân Do Thái phải treo cờ trắng  đầu hàng. Trước khi anh ta thả thùng truyền đơn, chợt nghe thấy tiếng nổ  phát ra từ dưới đất, rồi tiếp theo trông thấy một cuộn khói đen thoát  ra từ động cơ chiếc máy bay. Chiếc máy bay bắt đầu nghiêng, trước mặt  anh ta là bãi biển nơi làng Herzliya, Mahmoud cố gắng lái chiếc máy bay  ra một chỗ vắng rồi đáp xuống. Một tiếng đồng hồ sau, Mahmoud bị bắt  sống.
Tháng  12 1947   Sự chuyển tiếp từ thời gian bị ngoại nhân cai trị hai ngàn  năm cho đến ngày độc lập diễn tiến nhanh chóng. Hình bóng người Do Thái  ca hát nhẩy múa ngoài đường trong đêm độc lập 29 tháng 11 đã dần dần  phai nhạt đi. Trong vòng sáu tháng kế tiếp, người Do Thái phải chiến đấu  chống lại kẻ thù dân quân Palestine. Người Palestine được khối Ả Rập  ủng hộ từ phiá bên kia sông Jordan, qua Syria và Iraq. Quân du kích Ả  Rập đe doạ sinh mạng người Do Thái ở khắp nơi, trong thành phố cổ  Jerusalem, hải cảng Haifa, và ngay trong thủ đô Tel Aviv. Quân Ả Rập phá  hoại hệ thống chuyển vận, cô lập những làng định cư Do Thái. Trong  những tuần lễ cuối trên phần đất Palestine, sự hiện diện của người Anh  chỉ có trên giấy tờ.
Dịch  vụ Hàng Không   Là một cố gắng của vài người đàn ông yêu nước, theo  đuổi giấc mơ chủ nghĩa Dân Tộc (Zionism) cho đến khi thành sự thật.  Quyết định xây dựng dịch vụ hàng không đến bộ chỉ huy Haganah (tiền thân  của quân đội Do Thái) ngày 10 tháng 11 năm 1947, ba tuần lễ trước quyết  định của Liên Hiệp Quốc chia vùng đất Palestine làm hai cho Do Thái và Ả  Rập.
         Aharon Remez và Heyman Shamir đã có bằng lái máy bay trong thời gian  phục vụ trong Không Lực Hoàng Gia Anh và Hoa Kỳ trong trận Đệ Nhị Thế  Chiến. Trước khi ra khỏi Không Lực Hoàng Gia Anh, Remez đã thâu thập  được rất nhiều tin tức giá trị. Tất cả những tin tình báo về không lực  trong các quốc gia Ả Rập như: tổ chức, kỹ thuật, tác chiến, đường lối  làm việc cũng như tiếp vận. Với những điều hiểu biết về không lực khối Ả  Rập, Remez cùng với Shamir trình bầy trước vị chỉ huy đơn vị Haganah.
         Hai viên phi công tìm cách xây dựng một không lực đủ kích thước, sức  mạnh để có thể đóng góp một phần quan trọng, gây ảnh hưởng lớn trong  những trận đánh trong tương lai. Mọi cấp chỉ huy Haganah đều không đồng ý  với Remez và Shamir, cho rằng chuyện viễn vông, hiện tại tổ chức  Haganah vẫn còn thiếu rất nhiều vũ khí, súng đạn và đại bác. Tuy nhiên  vận may vẫn nghiêng về phiá hai chàng phi công, trong những người ngồi  nghe thuyết trình có David Ben-Gurion, vị thủ tướng tương lai của Do  Thái. Ông ta đồng ý và ra lệnh cho Remez, Shamir làm bản báo cáo trên  giấy tờ đàng hoàng.
         Ngày 23 tháng 10 năm 1947, hai viên phi công đệ trình lên Israel  Galilee, chỉ huy trưởng bộ tham mưu Haganah một kế hoạch chi tiết về  việc thành lập một đơn vị Không Quân cho Do Thái. Họ xin một ngân khoản  để thực hiện gần 1 triệu đô la, số tiền này đã hơn chi phí cho đội quân  Haganah. Biết trước rằng, số tiền lớn đó không thể nào có được, Shamir  đã dự trù một kế hoạch khác, quyên tiền những nhà tư bản Hoa Kỳ gốc Do  Thái.
         Kế hoạch này chia làm hai phần. Phần đầu gồm việc mua phi cơ chiến đấu,  huấn luyện phi công và liên lạc với người Anh (Họ vẫn chưa biết, ngưới  Anh sẽ chấm dứt chế độ cai trị vùng Palestine vào ngày 15 tháng 5 năm  1948). Phần thứ hai gồm những kế hoạch bí mật tìm mọi cách mua lậu thêm  máy bay. Phần này cũng bao gồm những phần hành sau đây:
     . Tổ chức phòng Không Quân trong bộ chỉ huy Haganah.
     . Tuyển mộ phi công và nhân viên không quân.
     . Thâu hồi, sửa chữa những phi trường do người Anh bàn giao lại.
     . Cử nhân viên đi mua máy bay cùng với đồ tiếp liệu đem về Do Thái.
     . Tồn trữ nhiên liệu, đồ tiếp vận cần thiết.
     . Phác hoạ sẵn chương trình hoạt động, kế hoạch hành quân, mục tiêu.
     . Thiết lập hệ thống tình báo cho không quân.
     . Thiết lập hệ thống báo động đề phòng phi cơ của địch.
         Hai tuần lễ sau, bộ chỉ huy Haganah thành lập phòng Không Quân. Thủ  Tướng Ben Gurion đề cử Shamir làm vị chỉ huy trưởng đầu tiên của Không  Lực Do Thái.
Phi  đoàn A được thành lập trong phi trường Sde Dov ngày 9 tháng 9 năm 1947  sau khi câu lạc bộ Bay đã di chuyển tất cả mọi máy bay ra khỏi phi  trường quốc tế Lod. Ngoài những phi công, nhân viên nguyên thủy từ phi  trường Lod, phi đoàn tân lập A tuyển phi công lấy ra từ đơn vị xung kích  Palmach của Haganah và mướn thêm phi công ngoại quốc đã có kinh nghiệm  bay để bảo vệ quốc gia trong thời gian đầu.
         Nhiệm vụ bấy giờ dành cho phi đoàn A là những phi vụ không thám cho  Haganah. Họ bay trên những làng định cư Ả Rập, theo dõi những biến  chuyển, sửa soạn của quân du kích Ả Rập. Các phi công trong phi đoàn A  cũng thực hiện những phi vụ tiếp tế cho các làng chiến đấu Do Thái hẻo  lánh, trong đó có thành phố cổ Jerusalem, Gush Etzion và những làng xa  xôi trong vùng Galilee hay trong sa mạc Negev. Tất cả những phi vụ này  đều được ngụy trang dưới danh hiệu phi cơ của câu lạc bộ Bay và hãng  Hàng Không để che mắt cả người Anh lẫn khối Ả Rập.
         Giữa tháng Giêng năm 1948, ba vận tải cơ cất cánh từ phi trường Sde Dov  chở những thùng vũ khí, đạn dược tiếp tế cho làng chiến đấu (Kibbutz)  Gush Etzion. Làng này bị quân Ả Rập bao vây, cô lập, tấn công và đang  chiến đấu cho sự sống còn của dân làng. Gush Etzion nằm hẻo lánh trên  những ngọn đồi trong vùng Hebron, không có phi đạo để máy bay lên xuống.  Thêm vào đó, thời tiết trong mùa đông gây trở ngại cho việc thả dù tiếp  tế không được chính xác. Dân trong làng chiến đấu Gush Etzion được lệnh  đặt những vỏ bánh xe cao su trên một con đường để các phi công Do Thái  sẽ tìm cách thả những thùng đồ tiếp tế xuống từ một cao độ thấp. Lúc thả  đồ tiếp tế gần xong, tình cờ một máy bay thám thính Ăng Lê bay gần đó  trông thấy. Người Anh ra lệnh viên phi công lái máy bay đến trình diện  đồn cảnh sát trong thủ đô Tel Aviv.
         Trước đó khoảng một tháng, ngày 17 tháng 12 năm 1947, phi đoàn A đã  thực hiện một phi vụ oanh kích được ghi vào trong quân sử của Không Lực  Do Thái. Vào buổi sáng, Pini Ben Porat, một phi công Palmach cũng là một  người dân sống trong làng chiến đấu Na’an được lệnh lái chiếc máy bay  loại RWD-13 chở theo một bác sĩ đến sa mạc Negev. Họ được lệnh đến đó để  chăm sóc những người bị thướng do quân Ả Rập phục kích đoàn xe tiếp tế.
         Chiếc máy bay đáp xuống Beit Eshel vô ích, những người bị thướng đều đã  chết hoặc di tản. Khi Pini chuẩn bị cất cánh bay về, một sĩ quan Ăng Lê  làm việc trong làng Ả Rập Be’er Sheva gần đó làm khó dễ và báo tin cho  biết hàng trăm quân du kích Ả Rập Bedouin đang tấn công làng chiến đấu  Nevatim. Chàng phi công Palmach Pini nổi giận, nhờ dân làng chăm sóc  giùm vị bác sĩ, rồi tháo hai cánh cửa bên hông máy bay, thay vào đó bằng  khẩu đại liên với nhiều dây đạn. Pini đặt khẩu súng cùng đạn dược trên  đùi để chàng vừa lái máy bay vừa ráp đạn bằng một tay. Pini được một tay  súng trong làng tình nguyện đi theo.
         Chiếc máy bay cất cánh chừng vài phút, họ đã trông thấy làng Nevatim  nhỏ bé hình vuông xinh xắn nhô lên trong sa mạc. Pini nhìn thấy rõ quân Ả  Rập đang tấn công ở dưới và chuẩn bị lâm chiến. Loại phi cơ RWD-13  không phải loại máy bay chiến đấu, Pini phải nghiêng máy bay cho người  xạ thủ đại liên có đủ góc độ bắn vào đám quân thù ở dưới. Người xạ thủ  đại liên vừa khai hỏa khẩu súng vừa quăng lựu đạn xuống. Chỉ cần bay hai  vòng, quân Ả Rập chưa từng bị máy bay tấn công, hốt hoảng bỏ chạy.
         Sau đó Pini dùng chính chiếc phi cơ này để tản thương những người dân  làng bị thương nặng đến bệnh viện. Trận tấn công lịch sử này chính thủ  tướng Ben Gurion có ghi trong nhật ký rằng tình báo Do Thái cho ông ta  biết, chính kẻ thù Ả Rập trong Jerusalem cũng bị sóc. Trong khi đó người  Ăng Lê nổi giận ra lệnh bắn hạ tất cả những phi cơ nào có đem theo vũ  khí.
         Sáu năm sau, 1945, Pini Ben Porat lúc đó là phi công cho hãng hàng  không Do Thái El Al bị bắn rơi ở Bulgaria. Chiếc máy bay hành khách vô  tội này bị phi cơ chiến đấu ngăn chận mà không thông báo trước. Tất cả  58 hành khách cùng phi hành đoàn đều tử nạn.
         Đầu năm 1948, Dịch Vụ Hàng Không (Air Service – tiền thân của Không Lực  Do Thái) bất ngờ nhận được 21 chiến đấu cơ hạng nhẹ Auster. Những phi  cơ này được mua lại từ đồ quân đội phế thải của Không Lực Hoàng Gia Anh.  Sau khi tu sửa lại được các phi công Do Thái đem về (Thực sự chỉ còn  lại 19 chiếc, hai chiếc kia đã bị hư hại).
         Các toán chuyên viên mua bán vũ khí Do Thái đi khắp Âu Châu, và Hoa Kỳ  cũng làm những chuyến tương tự như ở bên Ăng Lê. Họ mua được rất nhiều  vũ khí từ Tiệp Khắc. Người Nga cũng đồng ý, không phải họ thương gì dân  Do Thái hay chủ nghĩa dân tộc Zionism mà chỉ muốn loại bỏ người Ăng Lê  ra khỏi vùng Trung Đông. 
         Vị tân Thủ Tướng Do Thái đã nhìn thấy tầm mức quan trọng sự sống còn  của một quốc gia, dân tộc mới hồi sinh Do Thái. Ông ta bị ám ảnh, những  cơn ác mộng trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, những thành phố bị dội bom tàn  phá. Ben Gurion lo sợ bị dội bom, biến Do Thái thành đống tro tàn. Trong  tình trạng thiếu ngân sách, quân đội Do Thái chỉ mong giữ được đất đai,  chưa ai nghĩ đến sức mạnh của không quân. Gần hai mươi năm sau, qua hai  trận chiến với quân Ả Rập, bộ chỉ huy tối cao quân lực Do Thái mới thấy  rằng không có lực lượng nào có thể so sánh với sức mạnh của không lực  trong một trận chiến mới với vũ khí tối tân, hiện đại.
        Tháng Ba 1948, phi đoàn A có 18 máy bay hạng nhẹ, 37 phi công, phân nửa  là người Do Thái, số còn lại là những quân nhân tình nguyện đến từ các  quốc gia khác. Sau đó, họ mua thêm phi cơ chiến đấu Auster để thành lập  hai phi đội tác chiến cho hai chiến trường Negev và Galilee. Sự phân  chia này tăng thêm sức mạnh cho đơn vị trưởng, không cần phải xin bộ chỉ  huy tối cao ở Tel Aviv vấn đề không trợ. Phi đội ở phương nam xử dụng  phi đạo trên đất nằm gần bộ chỉ huy lữ đoàn Negev trong làng chiến đấu  Nir Am. Phi đội ở phương bắc xử dụng phi trường Yaniel gần bộ chỉ huy lữ  đoàn Golani.
         Ezer Weizman đem theo hai phi cơ, ba phi công và năm chuyên viên cơ khí  đến Negev thành lập phi đội Negev. Weizman lúc đó là một phi công 24  tuổi mà sẽ tiến thân nhanh chóng lên làm tư lệnh Không Quân. 
         Trong đêm chờ đợi quyết định của Liên Hiệp Quốc cho thành lập quốc gia,  vùng sa mạc Negev có tất cả hai mươi ba làng chiến đấu. Hầu hết đều mới  lập, tương đối nhỏ và hẻo lánh, nhiều làng bị cô lập. Phi đội Negev là  phương tiện duy nhất để thông tin, liên lạc giữa các làng và với bộ chỉ  huy vùng. Phi đội Negev chỉ có hai chiếc Auster, thay phiên nhau bao  vùng, bảo vệ các đoàn xe tiếp tế, sau khi quân du kích Ả Rập bắt đầu  phục kích những xe cộ của người Do Thái đi lẻ loi.
         Đến tháng Hai năm 1948, theo dự án của Pini Ben Borat, các phi cơ của  Do Thái được trang bị thêm đại liên, lựu đạn nội hóa ném tay. Không lực  Do Thái bỗng dưng đươc tăng cường thêm một phi cơ Fairchild F-24 Argus  do một đơn vị bộ binh trong lữ đoàn Negev tịch thu được của một thanh  niên Ai Cập giầu có, đáp xuống một làng người Ả Rập Bedouin để mua cần  sa, á phiện. 
         Quân bộ binh Do Thái đốt những thùng cần sa, sơn lại chiếc máy bay rồi  được phi công bay lên gia nhập phi đội ở Galilee, thành lập một tháng  sau phi đội ở sa mạc Negev. Vùng Galilee nơi phiá bắc Do Thái có nhiều  làng chiến đấu tập trung chứ không rải rác, cô lập như trong sa mạc  Negev, đo đó không cần những phi vụ đưa tin hoặc tiếp tế.
         Phi đội mới thành lập trong vùng Galilee được xử dụng cho những phi vụ  tác chiến, yểm trợ cho bộ binh hoặc ngăn cản chiến đấu cơ của địch. Phi  đội này đặt dưới quyền chỉ huy của Pesach “Pussy” Tolchinsky, một quân  nhân xuất thân từ làng chiến đấu Kfar Giladi, cũng là một trong người có  công trong việc thành lập phi đoàn A. Sau đó ông ta được thay thế bởi  Daniel Bookstein, một phi công rất giỏi và can đảm.
         Ngày 2 tháng Năm, Bookstein bay trên bầu trời làng chiến đấu Ramat  Naftali gần biên giới Lebanon. Người phi công can đảm đã cứu làng chiến  đấu chống lại sự tấn công của quân Ả Rập. Bookstein sinh ra ở Moscow,  lớn lên ở Tel Aviv, một cấp chỉ huy mới 27 tuổi đã có hơn 500 giờ bay  cho hãng vận chuyển hàng không và Không Lực Hoàng Gia Anh.
         Trong ngày hôm đó 300 tình nguyện quân Ả Rập trong Đạo Quân Cấp Cứu  (Rescue Army) ở Syria và Lebanon tấn công làng chiến đấu Do Thái Ramat  Naftali. Trước đó toán quân này đã vào đóng trong đồn cảnh sát, căn cứ  quân sự của người Ăng Lê dọc theo biên giới Do Thái nơi hướng bắc khi  người Anh đã rút đi. Hành động này đe doạ một số làng chiến đấu Do Thái  trong vùng. Trận tấn công làng Ramat Naftali được xe bọc sắt và pháo  binh hạng nhẹ yểm trợ. Làng này chỉ có 45 người dân làng đã thấm mệt, vũ  khí thiếu thốn bảo vệ. Họ báo cáo về bộ chỉ huy lữ đoàn Palmach (quân  hiện dịch) xin yểm trợ, tiếp viện. Nhưng lúc đó, lữ đoàn tân lập này  đang bận hành quân trong chiến dịch Yiftah, giải cứu làng Safed và đẩy  lui đạo quân Cấp Cứu ra khỏi đất Do Thái. Một đơn vị trong đạo quân này  đã phá hủy hệ thống truyền tin giữa thành phố và vùng thung lũng Hula  Valley. Làng chiến đấu Ramat Naftali bị cô lập, chiến đấu trong cô đơn.
         Dân trong làng chiến đấu vẫn cố gắng cầm cự cho đến khi xe bọc sắt của  địch xuất hiện. Trước khi buông súng, họ nghĩ đến số phận người Do Thái  sẽ phải gánh chịu khi lọt vào tay quân thù. Mọi người sẽ bị tàn sát, kể  cả người già, phụ nữ, trẻ con. Bộ chỉ huy lữ đoàn yêu cầu phi đội của  Yavniel lên yểm trợ. Ba phi cơ Do Thái cất cánh từ phi trường Machanaim  gần làng Rosh Pina. Hai chiếc đem theo bom nặng 10, 25 kilograms chế tạo  trong một xưởng làm vũ khí bí mật của Haganah, chiếc thứ ba chở theo  một xạ thủ đại liên.
         Hai chiếc đầu bay lên không phận Ramat Naftali, chiếc thứ ba sẽ lên sau  để yểm trợ. Bookstein dẫn đầu phi đội, chiếc Auster của chàng chúi  xuống, nhắm vào đội hình mấy chiếc xe bọc sắt, ném ba quả bom qua cánh  cửa đã mở sẵn. Những tiếng nổ kinh hoàng làm quân Ả Rập khiếp đảm. Trước  khi địch lấy lại được bình tĩnh, chiếc Auster thứ hai do phi công Moshe  Feldman  (Peled) thả thêm một quả bom và hai quả khác nhắm vào mấy  chiếc xe bọc sắt đậu nơi làng Ả Rập Kaddesh gần đó. Sau đó hai phi công  Do Thái xả đại liên vào đoàn xe chở quân đậu trên đường từ làng Kaddesh  đến Malchia. Trong ngày hôm đó các phi công Do Thái bay tất cả chín phi  vụ. Quân Ả Rập cùng với dân hai làng Kaddesh, Malchia quá sợ hãi bỏ chạy  qua biên giới Syria. Làng chiến đấu Ramat Naftali được cứu thoát.
         Tám hôm sau, 10 tháng Năm, vị phi công anh hùng Daniel Bookstein tử  trận trên những ngọn đồi Judean Hills trong một phi vụ đánh những nút  chặn của quân Ả Rập nhằm cô lập thành phố cổ Jerusalem. Quân Haganah  giải tỏa được nút chặn trong hành quân Nachshon, tuy nhiên họ chỉ giữ  được vài ngày sau đó kiệt sức, đướng tiếp tế cho Jerusalem lại bị cắt  đứt.
         Quân Ả Rập cắt đứt đường giao thông với Jerusalem dễ dàng vào cuối năm  1947. Người Do Thái không xây dựng hệ thống làng chiến đấu (Kibbutz) nối  liền Jerusalem với phần lớn những làng Do Thái dọc theo vùng biển Điạ  Trung Hải. Số phận người Do Thái sống trong Jerusalem dựa vào đoạn đường  tiếp tế dài khoảng 25 cây số, hoàn toàn bị các làng Ả Rập chế ngự. Quân  Ả Rập cắt luôn ống dẫn nước chính vào thành phố. Họ thiết lập nút chặn  kéo dài từ Latrun, qua Sha’ar HaGuy, Castel tới lâu đài cổ xây từ thời  Cứu Thế (Crusader) nằm trên một ngọn đồi gần Jerusalem. Cho đến cuối  tháng Hai năm 1948, quân Ả Rập được hài lòng qua những chuyến đánh cướp  các đoàn xe tiếp tế Do Thái.
         Không Lực Do Thái lâm chiến cứu những đoàn xe tiếp tế. Mới đầu, các phi  công Do Thái bay những phi vụ thám thính, đem về những tin tức quý giá,  những điểm phục kích, nút chặn của quân Ả Rập. Bắt đầu từ tháng Ba, các  đoàn xe tiếp tế được yểm trợ đều đặn. Khi quân đội Anh rút đi, bỏ lại  hệ thống đồn bót, quân Ả Rập gia tăng mức độ đánh phá các đoàn xe làm  cho bộ chỉ huy Haganah phải đưa quân Palmach đi theo hộ tống. Mức độ  tiếp tế giảm xuống. Một ít xe đi thoát được đến Jerusalem, bỏ lại đằng  sau những xe tiếp tế, xe bọc sắt hộ tống bị đốt cháy va ønhững cột khói  đen.
         Các phi công Do Thái thuộc phi đoàn A cất cánh từ phi trường Sde Dov  khoảng một tiếng đồng hồ trước khi đoàn xe tiếp tế khởi hành. Nhiệm vụ  của họ bay dò thám con đường, đặc biệt những điểm tình nghi quân Ả Rập  phục kích. Bắt đầu từ Sha’ar HaGuy, con đường đất xây từ thời xa xưa dài  bẩy cây số. Đoạn đường này có nhiều dốc đá cao, quân Ả Rập có thể ẩn  núp ở trên cao, kiểm soát sự di chuyển trên đường. Quân Ả Rập chỉ cần  kéo một tảng đá lớn chặn con đường, làm kẹt đoàn xe, không có lối thoát.  Tám cây số tiếp theo qua đồi Mount Castel, có một đồn binh bỏ hoang phế  từ thời La Mã, Cứu Thế. Bấy giờ có một làng Ả Rập dưới sự lãnh đạo của  Abed Al Kadr Al Husseini, chuyên môn tổ chức đánh phá người Do Thái.
         Trận đánh dữ dội nhất, dài nhất xẩy tra vào cuối tháng Ba năm 1948. Một  đoàn xe gồm 33 xe vận tải từ Jerusalem chở đồ tiếp tế cho bốn làng  chiến đấu bị cô lập trong vùng Gush Etzion nằm trên những ngọn đồi  Hebron Hills. Vùng này bảo vệ phiá nam thành phố Jerusalem, cần gấp 120  tấn thực phẩm để kéo dài thêm ba tháng. Một lực lượng đi theo hộ tống  gồm có 130 chiến sĩ Palmach và 18 xe bọc sắt đi xen kẽ vào đoàn xe. Thêm  bốn xe bọc sắt mở đường để phá những nút chặn.
         Daniel Bookstein cất cánh trên một chiếc Auster từ phi trường Sde Dov.  Bên cạnh chàng phi công là quả bom Model 1 đầu tiên được chế tạo bởi  người Do Thái. Đoàn xe chạy 30 phút tới Gush Etzion, rỡ hàng, khoảng hai  tiếng đồ sau đã sẵn sàng chuyến trở về. Quân Ả Rập không chuẩn bị kịp  trong chuyến đi, tuy nhiên họ đã có thêm hai tiếng đồng hồ tổ chức phục  kích đoàn xe trên đường về. 
         Chiếc xe bọc sắt dẫn đầu cán phải mìn, bị hư hại nằm chắn ngang con  đường làm các xe khác không tiến lên được. Chỉ có mười một chiếc trong  đó có xe chỉ huy quay trở về được Gush Etzion. 180 người khác bị bao vây  bởi một số đông gấp bội người Ả Rập. Hai phần ba trong số 180 người Do  Thái là quân Palmach, không có cấp chỉ huy, họ quyết định xử dụng xe bọc  sắt chở người lui vào trong một ngôi nhà xây bằng đá ở Nebi Daniel, một  nơi linh thiêng đối với người Ả Rập.
         Sau khi đoàn xe rời Gush Etzion, Bookstein được lệnh quay trở về phi  trường Sde Dov. Tiếng cầu cứu của người Do Thái tử thủ trong căn nhà đá  Nebi Daniel tới phi trường và quân thù đã đốt những xe cộ nằm kẹt trên  đường. Mordechai “Modi” Alon bay thay cho Bookstein lái chiếc Auster thả  hai quả bom trên đầu quân Ả Rập. Modi, 28 tuổi đã học bay cùng với Ezer  Weizman do Không Lực Anh huấn luyện ở Rhodesia. Thêm một chiếc Auster  thứ hai lên tăng cường, thả bom vào đám quân Ả Rập trú ẩn trong những  rặng cây Olive và những ngọn đồi xung quanh căn nhà đá.  Hàng chục người  Ả Rập bắt đầu rút lui, chiếc Auster chúi xuống lần thứ hai bắn đại liên  xuống đám quân ô hợp.
         Modi quay trở về phi trường lấy thêm bom đạn rồi bay trở lại bãi chiến  trường. Lần này chiếc phi cơ của chàng được chào đón bằng đại liên làm  hụt quả bom định đánh vào ba xe vận tải chở quân Ả Rập. Trong lúc đó đám  quân dân bị kẹt trong căn nhà đá đã chiến đấu không nghỉ hơn 30 tiếng  đồng hồ, họ đã kiệt sức. Đêm đó các phi công Do Thái bay thả đồ tiếp tế  cùng với nước uống nhưng không thành công.
         Vì thiếu máy bay, các phi công Do Thái thay phiên nhau bay và làm nhiệm  vụ thả bom. Sáng sớm hôm sau, Bookstein ngồi đằng sau chiếc máy bay vận  tải hai động cơ. Chàng thả xuống một quả bom trúng mục tiêu nhưng không  làm giảm mức độ tấn công của địch. Chàng thả thùng tiếp tế thực phẩm,  rơi ra ngoài, người Do Thái nào chạy ra lấy thùng đồ đều bị quân Ả Rập  bắn gục.
         Tiếng kêu cứu nguy của những người bị vây càng lúc càng dồn dập “Quân Ả  Rập xử dụng súng cối tấn công! Yêu cầu gửi máy bay lên gấp!” Bộ chỉ huy  lữ đoàn Etzioni trong Jerusalem bó tay. Không Lực Do Thái là cứu cánh  duy nhất, các phi công Do Thái phải bay liên tục để yểm trợ và thả đạn  dược, lương thực, nước uống cho những người vị vây. Cuối cùng người Do  Thái phải yêu cầu người Ăng Lê tiếp cứu. Đoàn xe bọc sắt quân đội Anh  xuất phát từ trong Jerusalem trên đường đi cứu. Thủ lãnh người Ả Rập đe  doạ sẽ tấn công người Anh nếu họ không ra khỏi bãi chiến trường. Đoàn  quân xa Ăng Lê phải dừng lại tại Bethlehem.
         Modi bay trở lại cùng với Zvi “Chibi” Zibel thả bom. Đến buổi chiều, họ  bay thả đồ tiếp tế. Để những thùng đồ không bị rơi ra ngoài, Chibi bay  thật thấp. Đến lần thứ hai, chiếc máy bay bị trúng đạn, một mảnh kính vỡ  trúng vào mắt và ngực chàng phi công, chiếc máy bay cũng bị trúng đạn  nhiều chỗ. Người đi theo thả đồ tiếp tế phải băng cho phi công lúc đang  bay. Chibi đáp chiếc phi cơ xuống phi trường Sde Dov an toàn, chiếc máy  bay không còn một giọt nhớt.
         Quân Do Thái vẫn không chịu đầu hàng, cuối cùng quân Ả Rập đồng ý cho  người Anh vào giải giới người Do Thái đang bị vây. Mười lăm người chết  trong căn nhà đá không đem được xác bị quân Ả Rập phanh thây trả thù. 
         Bốn ngày sau thảm cảnh Nebi Daniel, một đoàn xe tiếp tế khác cũng bị  tấn công. Pini Ben Porat và Chibi Zibel đã bình phục nhanh chóng trong  nhóm phi công lái năm chiếc Auster bay yểm trợ đoàn xe. Lần này họ phải  chứng kiến cảnh tàn sát trên con đường ở dưới. Hai mươi hai người đã  chết, thêm mười sáu người khác bị thương. Trong thủ đô Tel Aviv, thủ  tướng Ben Gurion triệu tập các sĩ quan cao cấp Haganah ra lệnh “Trận  chiến bảo vệ hệ thống tiếp vận cho Jerusalem rất quan trọng. Sự xụp đổ  của người Do Thái trong Jerusalem sẽ gây ảnh hưởng lớn cho tất cả mọi  người Do Thái.” 
         Trong giây phút nguy khốn, hành quân Nachshon được mở ra. Đó là một cố  gắng tập trung mọi nỗ lực để đập một cú, chọc thủng những nút chặn của  người Ả Rập. Các chuyên viên mua bán vũ khí đã thoả thuận với Tiệp Khắc  mua lại một số vũ khí nhẹ cho cuộc hành quân và các cuộc hành quân sau  đó. Chuyến đầu tiên đã chuẩn bị đưa “hàng” từ bờ biển Nam Tư (Yugo) về  Do Thái vào cuối tháng Ba. Bị giới hạn trong vấn đề thời gian tiếp nhận  vũ khí, do đó hành quân Nachshon không thể nào bắt đầu trước tháng Tư. 
         Vì sự sống còn của một quốc gia tân lập, người Do Thái tìm cách khác,  mướn phi cơ vận tải ngoại quốc chở vũ khí về Do Thái. Trong thủ đô Tel  Aviv, thủ tướng Ben Gurion ra lệnh tiến hành chiến dịch “Operation  Balak”. Balak 1 là mật hiệu gọi chiếc vận tải cơ C-54 đáp xuống Prague,  Tiệp Khắc ngày 13 tháng Ba, chất “hàng” rồi bí mật bay về Do Thái.
         Chiếc máy bay chở hàng lậu sẽ đáp xuống một phi đạo bỏ hoang của quân  đội Anh nơi làng Ả Rập Beit Daras gần Be’er Tuvia. Mọi chuyện được giữ  bí mật, các quân nhân trong lữ đoàn Givati bảo vệ chuyến rỡ hàng cũng  không được biết, còn chiếc máy bay C-54 sẽ bay trở lại Prague ngay đêm  đó. 
         Chiếc máy bay chậm chạp bay từ biển vào, đáp xuống phi đạo bằng đất dễ  dàng. Trong khoảng một tiếng đồng, các quân nhân Do Thái rỡ hàng, chất  lên xe vận tải, người khác bơm xăng cho máy bay, những nhân viên khác  kiểm soát lại vấn đề cơ khí cho chắc chắn. Mọi chuyện diễn ra trong bóng  đêm, dưới ánh đèn pin. Chuyến này người Do Thái đem về được 200 khẩu  súng trường Tiệp Khắc Mauser, 40 khẩu đại liên cùng với 150 ngàn viên  đạn.
         Hai tuần lễ sau, trung tâm hành quân Nachshon nhận được thêm Balak 2,  tên một chiếc tầu đem về từ Tiệp Khắc 4500 khẩu súng trường, 200 súng  đại liên, 5 triệu viên đạn đủ loại. Thủ Tướng Ben Gurion sau này nói  rằng những điệp vụ Balak đã cứu nước Do Thái.
         Hành quân Nachshon khai diễn ngày 6 tháng Tư, mười hai ngày sau, phần  lớn con đường dẫn tới Jerusalem nằm trong tay người Do Thái. Điạ danh  Castel, trọng tâm cho các hoạt động của người Ả Rập, trở ngại lớn nhất  bị Do Thái đánh chiếm, giết chết lãnh tụ đám dân Ả Rập Al Husseini. Lá  cờ mầu xanh trắng Do Thái được treo lên trên đỉnh núi, trên những hoang  tàn đổ nát của trận đánh.
         Đầu tháng Năm, nhiều tin tình báo cho biết, quân chính quy Ả Rập đang  sửa soạn tấn công những vị trí của Do Thái vào ngày 15 tháng Năm. Sợ  rằng thành phố Jerusalem sớm muộn gì cũng lọt vào tay quân Ả Rập, người  Do Thái mở tiếp cuộc hành quân Maccabee, tên của Maccabee (Quyết Tử)  Mutzeri, một cấp chỉ huy đoàn xe tiếp tế tử trận ở Sha’ar HaGuy.
         Ngày 1 tháng Năm, phi đoàn A bay thả một quả bom mới chế tạo, trong  vòng thí nghiệm xuống làng Ả Rập Beit Mahsir, từ trên cao nhìn xuống  Sha’ar Haguy. Người phi công chính là Yariv Sheinbaum, Daniel Bookstein  lúc đó là chỉ huy trưởng phi đội Galilee ngồi ghế phi công phụ. Trong  bức điện văn báo về bộ chỉ huy, chiếc máy bay Norsemen đã trông thấy mục  tiêu và vào vùng để thả bom. Liền sau đó chiếc máy bay mất định hướng,  quay vòng rồi nổ tung trên một rặng núi gần làng Beit Mahsir. Không rõ  nguyên nhân, có người cho rằng qủa bom bị tuột chốt lăn qua lại trên máy  bay làm phi công mất bình tĩnh, người khác cho là bị máy bay Không Lực  Anh bắn rớt. Tất cả sáu người trên máy bay đều thiệt mạng, không tìm  được xác. Nửa năm sau, người Do Thái chiếm được khu vực, những mảnh vụn  của chiếc máy bay tìm thấy, và họ đặt tên cho rặng núi là ngọn núi của  những chàng Phi Công (Pilot’s mountain).
         Trong khi hành quân Maccabee đang tiếp diễn, hai công diện khẩn gửi đến  phi đội Negev và Galilee, triệu hồi Ezer Weizman và Modi Alon về họp  tại bộ chỉ huy Không Quân. Về đến bộ chỉ huy, Weizman gặp bạn cùng khóa  bay Remez để được thông báo “Các bạn chuẩn bị qua Tiệp Khắc học bay loại  máy bay chiến đấu Messerschmitt 109 và đem chúng về Do Thái”.
         Người Nga xúc tiến công việc “đuổi” người Ăng Lê ra khỏi vùng Trung  Đông, họ thúc đẩy Tiệp Khắc bán vũ khí cho Do Thái. Mỗi chiếc  Messerschmitt giá 44 ngàn đô la. Qua ngày thứ ba trong khóa huấn luyện,  các phi công tiền phong của Do Thái được nghe radio tin tức, Thủ Tướng  Ben Gurion đã công bố thành lập quốc gia, và không quân Ai Cập đã ném  bom thủ đô Tel Aviv.
         Ngồi học bay trên buồng lái chiếc Messerschmitt, các phi công Do Thái  như ngồi trên lửa khi nghe radio tin tức các đoàn xe bọc sắt Ai Cập đang  tiến về hướng thủ đô Tel Aviv. Họ phải bỏ dở khóa học, cứ đem máy bay  về trước đã rồi “Nghề dậy nghề”. 
         Không lực Ai Cập xử dụng loại máy bay Spitfires oanh tạc nhiều lần.  Ngày 15 tháng Năm, phi công Ai Cập oanh kích phi trường Sde Dov nơi đặt  bộ chỉ huy Không Lực Do Thái (phi đoàn A), làm hư hại phi cơ và chết năm  quân nhân. Địch thả bom nơi trạm xe lửa trung ương trong thủ đô Tel  Aviv làm chết bị thương hàng chục thường dân. 
         Đồng thời, Ai Cập tấn công phi đạo ở Nir Am thuộc phi tuần Negev làm hư  hại một trong hai chiếc Auster (những phi tuần mới thành lập của Do  Thái chỉ có hai chiến đấu cơ). Hai chiếc vận tải cơ Dakota bị hư hại  trong phi trường Tel Nof. Phi cơ Syria và Iraq cũng oanh kích những làng  chiến đấu nơi hướng bắc, phi đạo Yavniel thuộc phi tuần Galilee. Các  phi công phải bay lén ban đêm thả đồ tiếp tế cho những làng chiến đấu Do  Thái.           
         Khi trận chiến Độc Lập 1948 bắt đầu, không lực trong khối Ả Rập có tất  cả 131 phi cơ đủ loại. Ai Cập chiếm một nửa có hơn 50 phi cơ chiến đấu  và thả bom. Iraq có 9 phi cơ và Syria có 15 máy bay thả bom. Ngày 16  tháng Năm năm 1948, Dịch Vụ Hàng Không (Air Service) chính thức trở  thành Không Lực Do Thái, được thành lập trước cả Lực Lượng Quốc Phòng  (Israel Defense Forces). Vị chỉ huy trưởng mới là Israel Amir  (Zabeldovesky), một cấp chỉ huy trong Haganah, chính trị gia bạn của Thủ  Tướng Ben Gurion. 
         Không Lực Do Thái có bộ chỉ huy với 675 nhân viên, những phi đội có tên  là “Con Báo - Panther” (Phi đoàn A), “Lạc Đà – Camel” (Phi đội Negev),  và “Sư Tử – Lion” (Phi đội Galilee). Trong tuần lễ tuyên bố độc lập,  Không Lực Do Thái có tất cả 21 phi cơ vận tải đủ loại, chở quân hạng nhẹ  và trung bình. Trong số đó, 3 chiếc không bay được, mười chiếc khác có  vấn đề kỹ thuật, chỉ có 8 chiếc bay được. Sau trận địch oanh kích phi  trường Sde Dov ngày 15 tháng Năm, Do Thái chỉ còn 5 chiếc bay được.
         Không quân của địch không đủ tin tức tình báo chính xác, nên các trận  oanh kích kém hiệu quả như tận tấn công phi đạo bỏ hoang gần Kfar  Sirkin. Ngày 22 tháng Năm, không quân Ai Cập tấn công phi trường Ramat  David, không biết Không Lực Hoàng Gia Anh vẫn còn giữ phi trường, bảo vệ  đường rút quân nơi hải cảng Haifa. Quân Ai Cập bất thần thả bom tiêu  hủy vài phi cơ chiến đấu Spitfire và bắn rớt một vận tải cơ Dakota của  người Anh đang đáp xuống phi đạo. Nổi giận, người Anh bàn giao lại phi  trường cho người Do Thái.
         Khẩn trương, người Do Thái đem về mấy chiếc Messerschmitt cùng với năm  phi công gồm có Ezer, Modi và ba phi công ngoại quốc tình nguyện: Lou  Lenart, Eddie Cohen và Rubie Rubenfield. Tại Do Thái, quân Ai Cập đang  tiến gần tới Tel Aviv, kinh thành Jerusalem bị quân Lê Dương Jordan bao  vây. Quân Syria tiến tới nơi hướng bắc Degania gần biển Galilee. Đội  quân hỗn hợp Iraqi-Jordanian tiến về Netanya, đe dọa sẽ cắt khu vực  trung tậm Do Thái.
         Aharon Remez, chỉ huy phó Không Lực Do Thái ra lệnh cho các phi công  không được cất cánh cho đến khi nào kế hoạch tấn công đầu tiên đã được  soạn thảo xong. Theo kế hoạch này, phi công Do Thái sẽ tấn công căn cứ  không quân Ai Cập ở El Arish, phá hủy những chiếc Spifires thường đe doạ  thủ đô Tel Aviv.
         Ngày 29 tháng Năm, chuyên viên kỹ thuật Tiệp Khắc đã ráp xong chiếc  Messerschmitt đầu tiên. Ngày hôm sau, Shimon Avidan, chỉ huy trưởng lữ  đoàn Giv’ati đến phi trường Tel Nof với lệnh hành quân có chữ ký của  Yigal Yadin, ra lệnh tấn công đoàn xe thiết giáp Ai Cập đang tạm dừng  chân gần Ashdod cách Tel Aviv 32 cây số. Quân đội Do Thái đã phải phá  những cây cầu đến thủ đô Tel Aviv, lữ đoàn Giv’ati chỉ có hai đại đội  khinh binh.
         Phi đội bốn chiếc Messerschmitt của Do Thái do Lenart bay đầu đội hình,  Modi kế tiếp, sau đó là Ezer và Eddie Cohen theo sau. Ezer sau này kể  lại trong cuốn hồi ký của ông ta “Chiều tối, chúng tôi mới cất cánh. Mục  tiêu cũng rất gần, ngay từ khi cất cánh chúng tôi đã nghe tiếng súng  đại liên phòng không của địch. Chúng tôi bay ra biển, lấy cao độ 7000 bộ  rồi chúi xuống đoàn xe thiết giáp của địch. Sau khi ném bom, chúng tôi  tiếp tục nhào xuống khai hỏa khẩu đại liên 20 ly vào đoàn quân Ai Cập  đang chạy hỗn loạn tứ phiá ở dưới. Sau đó, tôi trông thấy Eddie chúi  xuống, xuống nữa, xuống nữa, đâm xuống mặt đất gây nên một tiếng nổ lớn  và một cột khói đen. Chúng tôi không rõ là phi cơ bị trúng đạn phòng  không hay bị trục trặc kỹ thuật, không ngờ chuyến bay Messerschmitt đầu  tiên của anh cũng là chuyến cuối.”
         Trận đánh bằng không quân đầu tiên, Không Lực Do Thái đã mất đi phân  nửa chiến đấu cơ Messerschmitt. Chiếc do Modi lái bị gẫy cánh khi đáp,  phải mất thời gian sửa chữa. Ngày hôm sau, Modi được quyền chỉ huy phi  đội tác chiến đầu tiên của Không Lực Do Thái. Trong khi đó, cấp chỉ huy  đoàn xe thiết giáp Ai Cập không biết rằng Do Thái có phi cơ chiến đấu.  Ông ta để cho đoàn xe thiết giáp dưới quyền đậu xe chụm lại trên một con  đường đất đỏ, làm mục tiêu dễ dàng cho bốn chiếc Messerschmitt Do Thái.
         Chiều hôm sau, hai chiếc Messerschmitt còn lại được lệnh tấn công đội  hình thiết giáp hỗn hợp Iraqi-Jordanian đang trên đường tiến quân, đe  doạ Nitanya. Những xe bọc sắt Ả Rập qua khỏi Tulkarm, xử dụng đại bác 30  ly trên xe bắn phá làng chiến đấu Kfar Yona. Ezer cất cánh cùng với  Rubie Rubenfield thả bom ga xe lửa Tulkarm, nơi liên quân  Iraqi-Jordanian đặt bộ chỉ huy. Sau đó các phi công Do Thái tiếp tục bắn  đại liên xuống đám quân ô hợp ở dưới. Trong chuyến thứ hai, chiếc  Messerschmitt do Rubie Rubenfield lái bị trúng đạn phòng không. Ezer  trông thấy khói đen bay ra từ đằng đuôi chiếc phi cơ. Không Lực Do Thái  chỉ còn lại một máy bay chiến đấu.
         Rubenfield nhẩy dù xuống một làng Do Thái Kfar Vitkin. Dân làng nhìn  chàng với cặp mắt căm hờn, họ vẫn chưa biết rằng Do Thái đã có máy bay  chiến đấu. Rubenfield có nước da ngăm đen giống người Ả Rập, không biết  nói tiếng Hebrew (Cổ ngữ Do Thái) nên không thể cắt nghĩa mình là người  Do Thái Hoa Kỳ. Tuy nhiên nụ cười đủ để người dân hiểu người này là bạn.
         Khối Ả Rập đâu ngờ, người Do Thái có một đơn vị không quân bí mật. Ngay  cả người Do Thái sống trong thủ đô Tel Aviv cũng không biết cho đến  chiều tối ngày 3 tháng Sáu. Đúng sáu giờ chiều, tiếng còi báo rộng vang  rền Tel Aviv. Hai chiếc Dakota của Ai Cập từ biển bay vào thả bom, rồi  một chiếc Messerschmitt đơn độc bay lên tấn công hai chiếc máy bay thả  bom của Ai Cập. Viên phi công lái chiếc Messerschmitt chính là Modi,  chàng bay thẳng tới trước hai chiếc Dakota ngăn chặn. Một chiếc Dakota  bẻ lái bay lên hướng bắc trúng đạn rớt xuống vùng đất cát Herzliya.  Chiếc còn lại định bỏ chạy cũng bị Modi đuổi theo bắn rớt nơi những cồn  cát ở Bat Yam, phiá bắc Tel Aviv.
         Kể từ thời điểm đó, mọi sự đều thay đổi. Đến cuối tháng, một chiếc  Spitfire của Ai Cập bị bắn rớt trong vùng Be’er Tuvia. Trong tháng Bẩy,  Modi bắn rớt một chiếc Spitfire khác trong một trận không chiến ngắn  trên bầu trời Be’er Sheva. Trong trận chiến, các phi công ngoại quốc  tình nguyện cũng bắn rơi thêm nửa chục phi cơ chiến đấu, thả bom của  khối Ả Rập. Phi đội tác chiến thứ nhất của Không Lực Do Thái đã đánh  đuổi máy bay kẻ thù ra khỏi không phận Do Thái và hoàn toàn làm chủ bầu  trời.          
         Không Lực Do Thái vẫn tiếp tục bí mật mua loại máy bay Messerschmitt  đem về Do Thái ráp lại. Họ có thêm bẩy chiếc Messerschmitt cùng với  chiếc Spitfire của Ai Cập bi bắn rớt nơi những cồn cát ngay bờ biển  Herzliya. Chiếc máy bay này được kéo về phi trường Tel Nof sửa chữa  lại.        
         Ngày 1 tháng Sáu, khối Ả Rập họp trong Amman về vấn đề Liên Hiệp Quốc  cắt đất Palestine để thành lập quốc gia Do Thái. Quốc gia mới hồi sinh  Do Thái được hai tuần lễ bị siết cổ trên các chiến trường. Thành phố  Jerusalem bị bao vây, dân Do Thái bị đói. Quân đội Ai Cập vẫn đe doạ thủ  đô Tel Aviv. Các nước Ả Rập khác: Jordan, Iraq, Syria đang củng cố lại  lực lượng sau trận tấn công đầu bị thất bại.
         Tối ngày 2 tháng Sáu, không lực Do Thái thả bom Amman, cảnh cáo khối Ả  Rập nên chấp thuận Liên Hiệp Quốc cho thành lập quốc gia Do Thái. Nhiệm  vụ thả bom này được trao cho hai chiếc Rapids, mỗi chiếc có thể chở một  tấn bom. Phi đội trưởng là Uri Brayer, vừa mới trở về sau chuyến bay  tiếp tế đi Sodom, làng chiến đấu Do Thái nằm nơi phiá nam biển Chết  (Dead Sea). Sau khi chất đầy bom lên hai chiếc Rapids trong phi trường  Sde Dov, các phi công Do Thái bay đi Amman.
         Hai chiếc Rapids âm thầm bay qua bầu trời đen Samaria. Mười lăm phút  sau họ xâm nhập không phận Amman. Thủ đô của Jordan tỏa ánh sáng ở dưới,  vẫn chưa có tiếng súng phòng không hoặc phi cơ ngăn chặn của địch. Các  phi công Do Thái dễ dàng nhận ra mục tiêu, dinh thự nơi các lãnh tụ Ả  Rập đang họp, gần cung điện Quốc Vương Abdullah, ông nội của Vua  Hussein. Họ cẩn thận không muốn làm hư hại toà dinh thự nguy nga. Trước  trận chiến Độc Lập 1948, Quốc Vương Abdullah đã có những cuộc họp kín  với lãnh tụ Do Thái Golda Meir và Eliyahu Sasson, đại diện cơ quan mà  sau này trở nên chính phủ Do Thái.
         Phi vụ ném bom bí mật thành công. Sau tiếng bom nổ, súng phòng không  Jordan bắn lên nhưng không trúng phi cơ. Chuyến thả bom thay cho lời  cảnh cáo khối Ả Rập, rằng Không Lực Do Thái không có giới hạn.
         Không Lực Do Thái lớn nhanh trong 26 ngày khởi đầu cho quốc gia Do  Thái. Trong thời gian tạm hưu chiến để chờ giải pháp Liên Hiệp Quốc,  trong căn cứ không quân “Etzion” (Người Do Thái đặt tên) ở Tiệp Khắc, ba  chiếc oanh tạc cơ hạng nặng B-17 Flying Fortress mua lại đồ phế thải  của quân đội Hoa Kỳ nằm chờ các chuyên viên cơ khí Do Thái tu bổ. Người  Do Thái cần loại máy bay này để thả bom căn cứ hành quân tiền phương của  quân đội Ai Cập tại El Arish, nơi tập trung quân Ai Cập trong giải đất  Garza và thủ đô Cairo của họ.
         Bộ chỉ huy tối cao quân lực Do Thái đã chuẩn bị đợt tấn công mới khi  thời gian hưu chiến chấm dứt. Không lực Do Thái soạn thảo hành quân  Seedling, oanh kích, tiêu diệt quân Syria gần Rosh Pinna, vùng phiá nam  Galilee, tấn công đuổi liên quân Iraqi-Jordanian đang đe dọa vùng  Metanya và Hadera, các nút chặn ở Lod, Ramle, phá vòng vây của địch ở  Jerusalem.
         Chiến tranh bắt đầu trở lại ngày 9 tháng Bẩy. Hành quân Seedling gặp  trở ngại, ba chiếc B-17 vẫn chưa xử dụng được. Không lực Do Thái thay  vào đó bốn chiếc Messerschmitt tấn công El Arish. Phi tuần do Lou Lenard  chỉ huy cất cánh vào lúc rạng đông. Môt chiếc bị rớt ngay từ lúc cất  cánh, một chiếc khác biến đâu mất. Lenard cùng với một viên phi công còn  lại không xác định được vị trí trung tâm hành quân của quân đôi Ai Cập ở  El Arish. Họ tấn công nơi tập trung quân địch trong giải đất Garza.
         Nơi hướng bắc, kế hoạch oanh kích quân Syria ở Mishmar Ha Yarden phải  hủy bỏ vì bộ binh Do Thái đang chuẩn bị phản công. Thiếu sự liên lạc  chặt chẽ với bộ binh, nhiều phi cơ Do Thái không tìm được mục tiêu làm  Shlomo Oren, vị sĩ quan điều không trong bộ chỉ huy trung ương nổi giận.
         Không đầy nửa năm, không lực Do Thái gia tăng số phi cơ và nhân viên  lên tới 3600 người. Trong vòng mười ngày, quân đội Do Thái lấy được  nhiều đất đai, thành phố Lod và Ramle, phá được sự đe doạ của địch ở Tel  Nof. Không lực Do Thái được xử dụng phi trường quốc tế ở Lod, và căn cứ  không quân Ramat David.
         Trong lần ngưng bắn thứ hai 19 tháng Bẩy, không lực Do Thái tự phê bình  và củng cố lại. Được Liên Hiệp Quốc gia hạn thêm ba tháng, không quân  cũng như lục quân Do Thái nghiên cứu lại kế hoạch tấn công, tái tổ chức,  tiếp tế. Chính quyền và quân đội Do Thái vẫn tiếp tục bí mật mua về Do  Thái vũ khí đạn dược, thêm vào số di dân lậu mới đến Do Thái.
         Trong tháng Bẩy 1948, không lực Do Thái có một cấp chỉ huy chuyên  nghiệp Thiếu Tướng Aharon Remez. Trong vòng một tháng, ông ta tổ chức  lại bộ chỉ huy, bổ nhiệm các vị phi đoàn trưởng tùy theo khả năng. Phi  đoàn vận tải được thành lập, bắt đầu với hai chiếc C-47 Dakota mua lại  của Air France và Pan Am. Sau đó bí mật mua được từ các tay buôn vũ khí  Hoa Kỳ ba chiếc Constellation, mười chiếc C-46 Commando và một chiếc  C-54 Skymaster.
         Phi đoàn vận tải bay các chuyến bay ra ngoại quốc đem về vũ khí, đạn  dược, kể cả cơ phận máy bay, đem về nước ráp lại. Đó là sự sống còn của  lực lượng quốc phòng Do Thái.
         Dưới tầm mắt xa xôi của Thủ Tướng Ben Gurion, quốc gia Do Thái không có  tương lai nếu không lập những làng định cư trong sa mạc Negev. Phiđoàn A  và phi đội Negev có thể bảo đảm an ninh cho những làng chiến đấu bị cô  lập, xa xôi và đem đồ tiếp liệu đến lữ đoàn Negev để họ có thể chiến đấu  liên tục trong vòng một tuần lễ.
          Trong phiên họp với các sĩ quan cao cấp trong bộ chỉ huy trung ương.  Không lực Do Thái đã gây tin tưởng cho mọi người rằng, họ có thể vận  chuyển một đơn vị cỡ lớn ra chiến trường nhanh chóng. Thủ Tướng Ben  Gurion đặt câu hỏi cho Remez và Munia Mardor chỉ huy trưởng phi đoàn vận  tải rằng việc chuyên chở đòi hỏi một gánh nặng 2000 tấn, liệu phi đoàn  có thể thực hiện được không? Munia Mardor trả lời là điều có có thể thực  hiện được trong một thời gian hạn hẹp.
         Phi vụ đầu tiên cất cánh khởi đầu cho hành quân Dust vào ngày 23 tháng  Tám, kéo dài hai tháng đến ngày 21 tháng Mười. Tiếp theo là hành quân  Yoav, thiết lập thêm một số làng chiến đấu, giải phóng vùng sa mạc  Negev. Trong ngày đầu tiên, các phi công trong phi đoàn vận tải đem đến  Negev 29 tấn đồ tiếp liệu, đến hết ngày thứ hai, họ tổng kết được tất cả  75 tấn dụng cụ, đồ tiếp liệu. Phiá Ai Cập biết người Do Thái đang mở  chiến dịch lớn nhưng vẫn không dám cho phi cơ lên ngăn cản. Không lực Do  Thái mở tiếp hành quân Dust 2, xây thêm một phi đạo dài hơn để những  phi cơ vận tải cỡ lớn có thể đáp xuống, đem theo đồ tiếp liệu.
         Trong bản báo cáo lên tổng trưởng Quốc Phòng Levi Eshkol, vị tân tư  lệnh không lực Do Thái, Thiếu Tướng Remez cho biết đến giữa tháng Chín,  Do Thái đã mua được  147 máy bay đủ loại. Đã nhận được 121 chiếc, trong  đó có 33 chiếc bị hư hỏng, 43 chiếc khác cần tu bổ.
         Tình thế đã thay đổi, Do Thái có 29 chiếc máy bay chuyên chở, oanh tạc,  được phối trí trong các phi trường ở Sde Dov, Tel Nof và Negev. Hai  mươi hai phi cơ vận tải, thả bom khác ở Tel Nof và Ramat David. Tuy vậy,  Do Thái chỉ có 11 phi cơ chiến đấu gồm 6 Messerschmitt và 5 Spitfire  vẫn bí mật nằm ở Herzliya. 
         Trong đợt tấn công thứ ba, Do Thái có thêm 4 chiến đấu cơ Mustang và 17  chiếc Harvard từ Hoa Kỳ. Harvard là loại phi cơ huấn luyện, có thể được  biến cải thành máy bay chiến đấu hoặc oanh tạc.
         Khi lần hưu chiến thứ hai vừa chấm dứt, xế chiều ngày 15 tháng Mười.  các phi tuần chiến đấu, oanh tạc cơ Do Thái tấn công phi trường Ai Cập ở  El Arish. Bị tấn công bất ngờ, các phi cơ Ai Cập vẫn còn đậu trong phi  trường. Đây cũng là lần đầu tiên, quân lực Do Thái mở màn trận tấn công  bằng không lực, mục đích chính làm vô hiệu hoá các phi cơ của quân địch.  Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Do Thái đã chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm sa  mạc Negev, đuổi tất cả người Ai Cập ra khỏi vùng đất sa mạc, cằn cỗi  này.
         Trong thời gian hưu chiến, quân đội Ai Cập bất chấp lệnh Liên Hiệp  Quốc, vẫn ngăn cản không cho đoàn xe dân sự Do Thái qua nút chặn ở  Faluja-to-Amjdal (Ashkelon) đem đồ tiếp tế đến những làng chiến đấu  trong sa mạc Negev. Không lực Do Thái trong hành quân Dust đã đem đồ  tiếp tế vào trong sa mạc và tích lũy chuẩn bị cho trận tấn công mới, phá  tan vòng vây.
         Trước khi tấn công, người Do Thái tìm một lý do. Ngày 15 tháng Mười, họ  thông báo cho Liên Hiệp Quốc sẽ đưa một đoàn xe đi tiếp tế. Lẽ dĩ nhiên  đoàn xe này sẽ bị Ai Cập tấn công, chạy trở lại. Đã chuẩn bị trước,  không lực Do Thái tấn công các vị trí đóng quân Ai Cập từ El Arish qua  giải đất Gaza, Beit Hanoun và Majdal. Lục quân Do Thái cũng đẩy lùi quân  địch ra khỏi Mount Hebron và dọc theo bờ biển.
         Quân đội Ai Cập trở tay không kịp trong lần không tập thứ hai vào buổi  sáng rất chính xác phải rút lui ra khỏi Ashdod. Ở Herzliya, Modi Alon  chỉ huy phi đoàn tác chiến nói với Ezer Weizman “Chúng ta được lệnh tấn  công đoàn quân triệt thoái. Tiêu diệt chúng.” Trong phi vụ cuối cùng  này, chiếc Messerschmitt do Modi lái bị nổ tung trong lúc hạ cánh. Modi  lúc đó mới 29 tuổi, chức vụ phi đoàn trưởng về tay Sid Cohen.
         Không lực Do Thái bay 240 phi vụ trong hành quân Yoav. Đó là con số rất  lớn, họ đã hoàn toàn làm chủ bầu trời. Thủ Tướng Ben Gurion tuyên bố  “Chúng ta không thể đánh đuổi được kẻ xâm lăng Ai Cập nếu không có Không  Lực Do Thái”.
         Thời gian giữa cuộc hành quân Yoav và một loạt hành quân nơi phiá nam,  không lực Do Thái được yêu cầu yểm trợ cho hành quân Hirem, cuộc hành  quân này lớn nhất và cũng là nỗ lực cuối cùng ở phiá bắc. Sau khi lấy  được thành phố cổ Nazareth, quân đội Do Thái muốn đẩy lùi lực lượng tiếp  viện Ả Rập (Arab Rescue Army’s Forces) dưới quyền chỉ huy Fouzi Al  Qawugji ra khỏi khu vực trung tâm Galilee.
         Hành quân bắt đầu từ ngày 28 tháng Mười và kéo dài chỉ sáu tiếng đồng  hồ. Do Thái lấy cớ rằng quân Ả Rập tấn công làng chiến đấu Manara. Al  Qawugji trả lời, lệnh hưu chiến không dính dáng đến đơn vị “Khủng Bố”  của anh ta. Các đơn vị bộ Do Thái làm phòng tuyến ngăn chặn quân tiếp  viện Syria, đến từ Mishmar HaYarden, cũng như quân đội Iraq. Sau trận  đánh chớp nhoáng, người Do Thái lấy được 14 làng ở phiá nam Lebanon, và  phát triển lên hướng bắc Galilee. 
         Nơi chiến trường phương nam, sau khi đẩy lui quân đội Ai Cập ra đến  vùng sa mạc giữa Gaza và Rafah. Phi trường Hatzor do quân đội Anh xây đã  ra khỏi tầm đạn pháo binh của địch, không lực Do Thái đem các chiến đấu  cơ, tạm dấu trong Herzliya đến phi trường Hatzor, chuẩn bị cho trận tấn  công mới.
         Ngày 22 tháng Mười Hai, một lực lượng Do Thái gồm 5 lữ đoàn tham dự  hành quân Chorev. Mục đích sẽ đánh xuyên qua đất Ai Cập, và tiếp tục tấn  công cho đến khi quân thù buông súng đầu hàng. Các phi tuần Do Thái sẽ  oanh kích nơi tập trung quân đội Ai Cập trong vùng Gaza và Rafah để làm  lạc hướng của địch. Trong khi đó các đơn vị bộ binh Do Thái sẽ tiến vào  sa mạc Sinai.
         Sau năm ngày tấn công, 5 lữ đoàn Do Thái tiến quân song song, cho đến  khi họ trông thấy con đường dẫn đến kênh đào Suez và thành phố Ismailia.  Người Ăng Lê và Hoa Kỳ yêu cầu quân đội Liên Hiệp Quốc ra tay ngăn  chận. Thủ Tướng Ben Gurion nhượng bộ, ra lệnh rút quân về trước ngày  1/1/1949.
         Tướng Yigal Yadin, tư lệnh tiền phương xin phép Thủ Tướng Ben Gurion  tiến quân bao vây quân Ai Cập ở Rafah, cắt đường rút quân ra biển và cô  lập đơn vị Ai Cập trong giải đất Gaza. Thủ Tướng Do Thái chấp thuận,  ngày 6 tháng Giêng, quân Ai Cập đồng ý ngưng bắn, Do Thái rút quân ra  khỏi Sinai.
III. THỜI GIAN GIỮA TRẬN CHIẾN ĐỘC LẬP VÀ CHIẾN DỊCH SINAI
         Ngày 1 tháng Tư 1949, vị chỉ huy trưởng phi đoàn tác chiến giã từ các  chiến hữu. Sid Cohen trở về quê hương của ông ta Nam Phi (South Africa)  để tiếp tục theo học ngành y khoa. Các phi công trong phi đoàn bay theo  chiếc máy bay chở hành khách, vẫy cánh chào từ biệt cấp chỉ huy đáng  kính, đã tình nguyện phục vụ nước Do Thái trong giai đoạn khó khăn của  lịch sử.
         Trận chiến Độc Lập kết thúc, không lực Do Thái phải tìm những phi công  tài ba khác để trám vào chỗ những phi công tình nguyện đến từ các quốc  gia khác như trường hợp Sid Cohen. Mặc dầu đã hết chiến tranh, không lực  Do Thái vẫn phải đề cao cảnh giác, phòng thủ quốc gia. Chức vụ chỉ huy  trưởng phi đoàn tác chiến được trao cho Ezer Weizman.
         Phi đoàn huấn luyện khóa phi công đầu tiên trong căn cứ không quân do  người Anh để lại ở Kfar Sirkin. Mười hai phi công tốt nghiệp, sau đó phi  đoàn di chuyển đến phi trường Ramat David. Phi đoàn lúc đó có 20 chiếc  Spifire và 3 chiếc Mustang, mấy chiếc Messerschmitt để lại phi trường  Hatzor.
El Hama và Tel Mutila
         Mười một tháng sau, không lực Do Thái lập thêm phi đoàn tác chiến thứ  hai gồm loại phi cơ chiến đấu Mustang và Spitfire. Hiệp định đình chiến  với Syria, quy định khu vực nhỏ hẹp giữa sông Yarmukh và Hamat Gader là  vùng phi quân sự. Sau 20 tháng, một cuộc nổi loạn xẩy ra ở Syria, quân  đội lên nắm quyền hành trong nước, nền hòa bình bị phai nhạt đi. Trong  khi đó, Do Thái bắt đầu chương trình xây dựng đất nước, họ rút nước ra  khỏi hồ Hula và khu vực đồng lầy xung quanh hồ mà một phần nằm trong khu  vực phi quân sự. Người Syria coi đó là hành động gây hấn, yêu cầu Do  Thái không được tiếp tục. Người Do Thái không chịu nhượng bộ, gây nên  một trong những trận chiến tranh nhỏ kéo dài 16 năm đến trận chiến Sáu  Ngày (Six Days War).
         Một toán tuần tiễu Do Thái trong sắc phục cảnh sát đến điều tra nơi  được báo cáo lính Syria mặc thường phục xâm nhập vào vùng phi quân sự.  Người Syria ngăn cản không cho vào. Viên sĩ quan chỉ huy Do Thái yêu cầu  quyền được vào, nhưng phiá Syria nhất quyết từ chối. Vị sĩ quan Do Thái  ra lệnh cho binh sĩ của mình cứ tiến vào. Phiá bên Syria nổ súng bắn  làm thiệt mạng bẩy binh sĩ và người Do Thái quyết định trả đũa.
         Sáng ngày hôm sau, không lực Do Thái được lệnh tấn công. Tướng Rudy  Augarten Carmi, chỉ huy trưởng căn cứ không quân Ramat David (phụ tá Sid  Cohen lúc ở phi đoàn tác chiến thứ nhất) được mời lên họp trong bộ tư  lệnh Phương Bắc (Northern Command). Trong buổi họp, Trung Tướng Yigal  Yadin, tham mưu trưởng quân lực Do Thái ra lệnh tấn công vào buổi chiều.  Được hỏi thêm về tinh thần của các phi công, Carmi trả lời là tinh thần  họ rất cao, sẵn sàng chiến đấu.
         Đích thân Carmi dẫn đầu một phi tuần bốn chiếc Spitfire oanh kích pháo  đài làm bộ chỉ huy Cảnh Sát Syria ở El Hama. Tiếp theo, phi tuần thứ hai  gồm bốn chiếc Mustang do Meir Roff chỉ huy sẽ tấn công các trại đóng  quân của địch trong khu vực lân cận bằng hỏa tiễn và đại bác 20 ly.
         Trận oanh kích của Do Thái kéo dài 15 phút. Benny Peled, chuyên viên cơ  khí từ buổi ban đầu ở Tel Nof, người ráp chiếc Messerschmitt đầu tiên,  sau đó được huấn luyện bay và sau này trở nên tư lệnh không quân. Peled  theo dõi trận oanh kích từ trên cao độ 5000 bộ, trong chiếc máy bay  Harvard biến cải thành máy bay liên lạc giữa các phi cơ chiến đấu với  trung tâm hành quân. Ông báo cáo loại Mustang oanh kích mục tiêu chính  xác hơn loại Spifire.
         Không đầy một tháng sau, ngày 2 tháng Năm, quân Syria tiếp tục tạo áp  lực trong vùng phi quân sự. Một đơn vị Syria băng qua sông Jordan chiếm  khu vực Tel Mutila và những ngọn đồi xung quanh, kiểm soát cửa sông và  con đường tiếp tế đến Rosh Pinna và những làng chiến đấu Do Thái nơi  phiá bắc Galilee. Điều này đe dọa trực tiếp nền an ninh Do Thái.
         Một toán tuần tiểu thuộc lữ đoàn Golani dưới quyền Rehavam “Gandhi”  Ze’evi chạm địch, báo cáo về lữ đoàn và xin tăng cường. Khi Do Thái đưa  quân lên, phiá Syria cũng được tăng cường pháo kích bằng súng cối và đại  bác. Trận đọ sức kéo dài năm ngày, Syria phải rút quân về đất Jordan,  phiá Do Thái có bốn binh sĩ tử trận.
         Đất nước Do Thái có ít dân, quân lực Do Thái phải điều nghiên lại trận  đọ sức ở Tel Mutila. Chỉ cần xử dụng không quân oanh kích là đủ. Rút  ngắn thời gian chiến tranh, tránh tổn thất nhân mạng. Tuy nhiên quân đội  Do Thái vẫn chưa để cho không lực được tự trị, vẫn còn là một đơn vị  yểm trợ.
         Tướng Yadin, tuân theo lệnh của bộ trưởng Quốc Phòng ban hành trong  tháng Mười 1949. Tập trung hệ thống chỉ huy của quân đội trong bộ tư  lệnh trung ương bao gồm Hải, Lục và Không quân. Sự mâu thuẫn, va chạm  quyền hành giữa vị tư lệnh không quân Remez và Yadin gây bất mãn. Thiếu  Tướng Remez xin giải ngũ vào tháng Mười Hai năm 1950, lúc đó mới 31  tuổi.
         Thiếu Tướng Shlomo Shamir, 35 tuổi lên nắm quyền tư lệnh không quân.  Tướng Shamir cũng được lệnh bộ tư lệnh tối cao, đem bộ tư lệnh không  quân vào nằm trong bộ tư lệnh trung ương. Vài sĩ quan không quân cao cấp  bất mãn xin giải ngũ, trong đó có Dan Tolkowsky.
Chaim Laskov. Người xây dựng cơ cấu cho Không Lực Do Thái
         Cuối tháng Tám 1951, vị tư lệnh không quân mới là Thiếu Tướng Chaim  Laskov. Ông ta không được hài lòng vì các phi công thiếu khả năng, tinh  thần phục vụ, báo cáo lên bộ tư lệnh trung ương rằng vai trò của không  lực bị giới hạn gây nên tình trạng bất mãn, thiếu tinh thần và vô kỷ  luật.
         Thiếu Tướng Laskov trong chuyến công du Anh Quốc, rất ngạc nhiên khi  được thông báo là đã được chọn lên làm tân tư lệnh không lực Do Thái.  Thực ra ông ta đã nổi tiếng khi còn là chỉ huy trưởng không đoàn huấn  luyện. Sinh quán tại Nga Sô, cha của ông bị bọn cướp Ả Rập giết hại ở  Haifa. Khi được trao cho nhiệm vụ, Laskov gọi điện thoại mời Dan  Tolkowsky, người chống đối Yadin xin giải ngũ. Tolkowsky trở lại với  quân đội làm tư lệnh phó không quân cho Laskov.
         Trong tháng Mười Một 1951, Tolkowsky hoàn tất bản báo cáo chi tiết về  những “vấn đề” trong không lực Do Thái. Lúc đó không quân có tất cả 200  máy bay gồm 17 loại khác nhau. Trong số 137 phi cơ chiến đấu, thả bom  chỉ có 85 chiếc đủ tiêu chuẩn bay. Trong số 130 chuyên viên cơ khí, chỉ  có 27 người phục vụ trong phi đoàn tác chiến. 
         Dưới kinh nghiệm chiến đấu của Tolkowsky, chỉ huy tham mưu của Laskov,  không lực Do Thái thảo ra ba chương trình làm việc dựa theo nhiệm vụ bộ  tư lệnh trung ương trao phó. Nhiệm vụ thứ nhất là bảo vệ không phận, thứ  hai tiêu diệt không lực khối Ả Rập và thứ ba là chuyển vận, yểm trợ Lục  quân. 
         Đến tháng Hai năm 1953, bộ tư lệnh trung ương từ chối ngân khoản tuyển  thêm 200 nhân viên để thành lập thêm ba phi đoàn mới mà đã mua phi cơ,  kể cả phản lực cơ Meteors của Anh quốc. Tham mưu trưởng quân lực Do Thái  lúc đó là Trung Tướng Mordechai Makleff, Thiếu Tướng Moshe Dayan lúc đó  là trưởng phòng hành quân. Moshe Dayan là một cảm tử quân (commando),  ông ta chỉ để ý đến vấn đề an ninh, chống khủng bố, quân giết người Ả  Rập. 
         Tháng Năm 1953, Laskov xin từ chức, bộ tư lệnh trung ương không biết đề  cử ai thay thế, bèn phong cho Tolkowsky làm quyền tư lệnh không quân.  Lúc đó trong không lực Do Thái, không một phi công nào nhiều kinh nghiệm  hơn Tolkowsky.
Dan Tolkowsky: Phi công, chuyên viên cơ khí, người đàn ông lịch sự
         Thiếu Tướng Dan Tolkowsky 32 tuổi, thâu thập rất nhiều kiến thức, kinh  nghiệm về những công việc, phần hành, nhiệm vụ khác nhau. Tham mưu  trưởng quân lực Do Thái gọi Tolkowsky “Người lịch sự Ăng Lê, phong cách  Tây phương”. Thực ra Tolkowsky sinh trưởng ngay tại Do Thái trong một  gia đình sung túc, một gia đình Do Thái định cư đã lâu. Theo học trường  Gymnasia Herzliya ở Tel Aviv, và đã từng du học bên Anh. Tolkowsky là vị  tư lệnh đầu tiên xuất thân từ phi đoàn tác chiến, lái máy bay chiến  đấu.
         Phòng tình báo bộ tư lệnh trung ương báo cáo về sự phát triển về không  quân trong khối Ả Rập để chuẩn bị cho một trận tấn công thứ hai. Bài học  lấy ra từ trận chiến Độc Lập 1948 đã được quân đội Ai Cập, Syria và  Iraq học hỏi, nghiên cứu nhanh chóng hơn phiá Do Thái, hai, hoặc ba năm  trước, họ đã có phản lực cơ chiến đấu. Theo kế hoạch của khối Ả Rập,  không quân Ai Cập sẽ tiêu diệt không lực Do Thái trong lần tấn công đầu  tiên. Trong khi đó, không quân Syria và Iraq sẽ oanh kích các căn cứ  quân sự, nơi có đông dân cư. Không quân Jordan vẫn còn trong thời kỳ  phôi thai. Thêm vào nữa là người Anh đã bán cho khối Ả Rập nhiều phản  lực cơ chiến đấu Meteor và Vampire, các phi công Ăng Lê đang huấn luyện  bay cho phi công Ả Rập.
         Do Thái lúc đó vẫn còn tìm cách mua lại những loại máy bay cánh quạt  cũ, phế thải sau trận Thế Chiến Thứ Hai. Màng lưới tình báo Do Thái ước  lượng đến đầu năm 1954, không lực khối Ả Rập có 360 phi cơ chiến đấu,  một phần ba trong số đó là phản lực. Kế hoạch trả đũa của không lực Do  Thái trong bộ chỉ huy Tolkowsky dựa trên bốn căn bản:
1.         Lúc nào cũng đề cao cảnh giác, phản ứng tự vệ nhanh chóng.
2.         Mua những loại phi cơ chiến đấu đa dụng rẻ tiền để tấn công cũng như phòng thủ. Gia tăng số phi đoàn tác chiến.
3.         Tổ chức kế hoạch phòng thủ không phận mềm dẻo dễ thay đổi.
4.          Tình trạng yếu thế về phi cơ, nhân lực. Do Thái phải tiêu diệt không  lực Ai Cập chớp nhoáng khi các chiến đấu cơ của họ vẫn còn đậu dưới đất.
Cách Mạng về Phản Lực
         Để thực hiện bốn điều căn bản kể trên, Do Thái mua những dàn radar tối  tân làm việc 24 giờ mỗi ngày. Không lực Do Thái bước vào kỷ nguyên phản  lực một tháng sau khi Tolkowsky lên nắm quyền tư lệnh không quân. Hai  phản lực cơ chiến đấu Meteor đáp xuống phi trường Ramat David ngày 17  tháng Sáu năm 1953. Do Thái mua 15 phi cơ loại này từ hãng sản xuất  Gloucester ở Anh. Thủ Tướng Ben Gurion quá thích thú đặt tên cho hai  chiếc đầu tiên đến Do Thái là “Storm - Mưa Bão” và “Tempest – Giông Tố”,  dựa theo lời kinh thánh Psalms 83: “Bạn sẽ đánh đuổi chúng như mưa bão,  giông tố để cho chúng sợ hãi.” 
         Cùng thời gian đó, Ai Cập đã có 49 phản lực cơ Meteor và Vampire. Người  Anh cũng đồng ý huấn luyện phi công phản lực cho Do Thái để rút ngắn  khoảng cách giữa hai không lực Do Thái và Ai Cập. Hai phi công phản lực  đầu tiên của Do Thái là Moti Hod và Benny Peled. Do Thái thành lập phi  đoàn phản lực cơ chiến đấu đầu tiên dưới quyền Menachem Bar, phi đoàn  phó là Benny Peled. Thêm vào là những phi công tài ba có kinh nghiệm lái  Spitfire như: Danny Shapira, Aharon Yoeli, Joseph “Joe” Alon, và Yaakov  “Yak” Nevo. Moti Hod là trường hợp đặc biệt, tự học lấy từ một năm  trước.
         Cho đến năm 1955, phi đoàn Meteor là phi đoàn phản lực duy nhất trong  không lực Do Thái. Các phi công Do Thái, cùng với chuyên viên cơ khí làm  việc với nhau rất tốt để bảo đảm bay được nhiều phi vụ nhanh chóng với  số lượng phi cơ ít ỏi.
Phi đoàn Mosquito - Con Muỗi: Chụp ảnh bầu trời Trung Đông
         Phi đoàn Mosquito đồn trú ở Hatzor, được huấn luyện về oanh tạc. sau đó  trở nên một ngành trong không lực Do Thái, Tình Báo Không Quân. Năm  1952, các phi cơ trong phi đoàn được trang bị dụng cụ chụp ảnh tối tân.  Ngày 3 tháng Chín 1953, Shlomo Lahat có thêm Natan “Newtek” Eldar tháp  tùng, không theo lệnh một cấp chỉ huy nào, cất cánh trên một chiếc  Mosquito bay đi Alexandria rồi trở về.                
         Ngày hôm sau, họ lại cất cánh bay đi Cairo. Chiếc Mosquito có tầm hoạt  động 1600 dặm với cao độ 35000 bộ, ngoài tầm máy bay ngăn chặn cũng như  súng phòng không của địch. Trong gần 3 tiếng đồng hồ, Shlomo Lahat bay  trên bầu trời Cairo, chụp ảnh các phi trường Ai Cập, chiều dài các phi  đạo. Sau khi họ bay về, những bức không ảnh được trình lên cho bộ trưởng  quốc phòng và bộ chỉ huy trung ương quân lực Do Thái. Hình ảnh rất rõ  ràng đến độ làm cho các sĩ quan cao cấp “quên” tội vô kỷ luật của hai  chàng phi công Mosquito.
         Trong năm 1953, bộ tư lệnh không lực Do Thái bắt đầu thảo kế hoạch tấn  công những căn cứ không quân của Ai Cập và Syria. Lahat phải làm những  chuyến bay khác vào đất địch để đem lại những chi tiết trong tháng Bẩy  1954. Những chiếc Mosquito chụp ảnh đầy đủ bán đảo Sinai, khu vực dọc  theo kênh đào Suez, bình nguyên sông Nile, khu lòng chảo Damacus, ngay  cả những căn cứ tiền phương của Iraq trong lãnh thổ Jordan.
         Ngoài phi đoàn Mosquito, Do Thái còn có phi đoàn Piper có nhiệm vụ bay  tuần tiễu, lấy tin tức tình báo cho lục quân. Các phi cơ trong phi đoàn  này cất cánh từ nhiều căn cứ: Ramle, Be’er Sheva và Eilat. Họ bay dọc  theo bờ biển vùng vịnh Eilat, biên giới Saudi hoặc bán đảo Sinai như  trong chiến dịch Promontory. Ngày 1 tháng Ba 1954, năm chiếc Piper cất  cánh từ phi trường Eilat, bay đi cứu thủy thủ trên chiếc tầu Almogit của  hải quân Do Thái. Chiếc tầu này hôm trước đi thám thính trên thủy lộ  Tiran, bị mắc cạn trong vùng biển san hô của Saudi Arabian, cách Eilat  khoảng 90 dặm. Một chiếc Mosquito và một Dakota bao vùng yểm trợ cho  chiếc tầu Almogit suốt buổi chiều và buổi tối. Qua ngày hôm sau 2 tháng  Ba, các phi công trong phi đoàn Piper bay đi cứu, được năm chiếc  Mosquito và bốn phi cơ chiến đấu Mustang bảo vệ. Các phi cơ Piper đáp  xuống bãi biển, đem các thủy thủ về an toàn. Các phi cơ Mustang do Moti  Hod chỉ huy sau đó bắn hủy chiếc tầu do thám.
Phi cơ Ouragan: Chuyến bay đến từ Pháp
         Trong tháng Tư 1954, Đại Tá Gamal Abdel Nasser, lãnh tụ trong nhóm sĩ  quan làm cách mạng lên nắm quyền ở Ai Cập. Xuất thân từ một làng nhỏ,  ông ta giải phóng hàng triệu nông gia khỏi ách thống trị của giai cấp  điạ chủ, trở nên một biểu tượng của quần chúng. Nasser chống cả Do Thái  lẫn người Ăng Lê dưới khẩi hiệu “Đất Ai Cập của người Ai Cập”. Người Anh  ra đi để lại phi trường bảo vệ kênh đào Suez cho Ai Cập điều này tạo  cho không lực Ai Cập một lợi thế. Phòng nghiên cứu kế hoạch trong bộ tư  lệnh trung ương quân lực Do Thái báo cáo “Không quân Ai Cập xử dụng  những căn cứ không quân do người Anh để lại có thể tấn công chúng ta bất  ngờ, trở tay không kịp.”        
         Nhiệm vụ của không lực Do Thái cũng như một liều thuốc ngăn ngừa trước  khi cơn bệnh xẩy ra. Tháng Tư 1954, Benny Peled cầm đầu một nhóm người  đi thăm Âu châu và Hoa Kỳ, tìm kiếm phương thức để canh tân không lực Do  Thái qua kỷ nguyên phản lực. Họ để ý các loại phản lực cơ tối tân như  Saab của Thụy Điển, Saber của Hoa Kỳ và Mystère của Pháp.
         Pháp sẵn sàng bán 30 chiến đấu cơ Mystère II cho Do Thái vào tháng Tám  năm 1955. Loại phi cơ này đã được xử dụng trong không lực Pháp và các  quốc gia đồng minh. Pháp đang chế tạo thêm loại phản lực cơ mới Mystère  IV, Peled yêu cầu bộ tư lệnh không quân ráng chờ để mua loại phi cơ mới.  Theo ông ta, Mystère II tuy là loại chiến đấu cơ tốt, nhưng loại mới  Mystère IV ngoài khả năng chiến đấu còn được xử dụng như những oanh tạc  cơ.
         Vị tư lệnh không quân Tolkowsky gửi sáu sĩ quan qua Pháp học bay loại  Mystère, trong đó có những phi công lỗi lạc của Do Thái: Danny Shapira,  Yak Nevo, và Dror Avneri. Peled thuyết phục được Tolkowsky chờ đợi mua  loại Mystère IV. Tướng Dayan, Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực Do Thái nổi  giận vì sự thay đổi quyết định của không lực. Trong khi chờ đợi chiếc  Mystère IV, Do Thái mua 12 chiếc Ouragan. Loại phản lực này bay chậm hơn  MIG-15 của Nga Sô nhưng nhanh hơn Meteor, dùng để phòng thủ không phận  Do Thái.
         Tại Ai Cập, Nasser đánh bóng ông ta như một lãnh tụ trong khối Ả Rập và  những quốc gia Á châu theo đạo Hồi. Đúng thời điểm đó, để trả đũa những  toán khủng bố thường xâm nhập giết hại thường dân, Do Thái tổ chức một  đơn vị biệt kích nhỏ tấn công qua phần đất Ai Cập. Những trận đột kích  trên giải đất Gaza trong hành quân “Mũi Tên Đen” chấm dứt những cuộc họp  mật giữa hai tòa đại sứ Ai Cập và Do Thái ở Paris và làm mất mặt lãnh  tụ Nasser. Nasser ra lệnh hủy bỏ những phiên họp mật với Do Thái và  ngành tình báo Ai Cập tổ chức thêm những toán đặc công, khủng bố xâm  nhập vào đất Do Thái qua ngả Gaza và sa mạc Negev. Những toán khủng bố  Ai Cập này được mệnh danh là Fedayeen mà theo kinh thánh Hồi giáo là  những người được lên thiên đàng nếu hy sinh trong trận thánh chiến. 
         Quân Biệt Kích Dù Do Thái làm thêm vố nữa vào đầu tháng Chín, cho nổ  tung căn cứ cảnh sát ở Chan Younis, 130 người Ai Cập chết và bị thương.  Nasser phản ứng bằng cách xử dụng Hải, Không quân phong tỏa vịnh Eilat  qua thủy lộ Tiran và bí mật bay qua Nga Sô xin quân viện. Đến cuối tháng  Chín, một giao kèo mua bán vũ khí lớn được ký kết giữa Ai Cập và Tiệp  Khắc. Số phản lực cơ Mystère II (30 chiếc) của Do Thái không thể so sánh  với 150 chiếc MIG-15, MIG-17 cùng với 70 chiếc Ilyushin IL-28 vận tảiû,  thả bom của Ai Cập. Ngoài ra Ai Cập còn mua thêm súng phòng không, 430  chiến xa và 600 đại bác. Người Anh còn bàn giao căn cứ không quân rộng  lớn Faid bên bờ kênh đào Suez cho Ai Cập đe dọa thêm nền an ninh của Do  Thái.
         Một vấn đề khác làm vị tư lệnh quân lực Do Thái lo âu là màng lưới báo  động, bảo vệ không phận bị giới hạn, không bao che được các căn cứ quân  sự tiền phương của Ai Cập ở El Arish. Phi cơ chiến đấu Do Thái không lên  kịp khi phi cơ Ai Cập đã xâm nhập không phận của Do Thái. Ngoài những  toán khủng bố Fadayeen phát xuất từ Gaza phá hoại những làng chiến đấu,  xe cộ trong vùng phiá nam Do Thái trong mùa hè 1955, hai chiếc Vampire  của Ai Cập xâm nhập không phận Do Thái ở Hatzor và Tel Nof một cách êm  thấm. Ngày 18 tháng Tám, một phi tuần 4 chiếc Meteor từ Ramat David được  gửi lên tăng cường phòng thủ Hatzor, và hai hôm sau trận không chiến  đầu tiên xẩy ra từ khi trận chiến Độc Lập 1948. Hai phi công Do Thái  Yehuda Peri và Mordechai Lavon đuổi bốn chiếc Vampire của Ai Cập ra khỏi  vùng sa mạc Negev.
         Sau trận đột kích ở Chan Younis, khoảng 7 giờ sáng ngày 2 tháng Chín,  đài kiểm soát không lưu ở Ramle báo động có bốn chiếc Vampire bay dưới  cao độ thấp trên bầu trời Nitzana. Lần này Aharon Yoeli và Chatto Tzidon  lên ngăn cản. Hai phi công Do Thái bay ra biển, hướng về nam sau đó lên  cao độ 1500 bộ. Họ được báo cho biết các phi cơ Vampire Ai Cập đang ở  trên bầu trời Nitzanim nơi phiá bắc Ashkelon. Các phi công Ai Cập vẫn  chưa biết hai chiếc Meteor của Do Thái đã lên ngăn cản và đang ở thế  thượng phong trên đầu họ.
         “Hai thằng Bogey đang ở phiá dưới, hướng ba giờ” Yoeli nghe Chatto báo  cáo trên máy vô tuyến. Quay sang bên phải, Yoeli chỉ trông thấy hai  chiếc Vampire, chàng nghĩ có lẽ đài kiểm báo thổi phồng lên thành bốn  chiếc. Yoeli bay theo đuôi hai chiếc phi cơ Ai Cập, Chatto bay sau bảo  vệ. Còn cách khoảng 400 thước, Yoeli khai hỏa khẩu đại bác 20 ly, một  chiếc Vampire quay vòng vòng trên trời rồi rớt xuống bãi cát ở Carmia.  Chiếc Vampire thứ hai bỏ chạy, Yoeli đuổi theo, lần này chàng bắn trúng  buồng lái, chiếc phi cơ Ai Cập nổ tung trên bầu trời. Mảnh phi cơ rơi  khắp nơi gần làng chiến đấu Yad Mordechai, tên của Mordechai Anilevitz,  lãnh tụ Do Thái nổi loạn ở Warsaw trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. 
         Trận không chiến kéo dài khoảng năm phút dưới sự chứng kiến của dân  làng Ashkelon. Tham mưu trưởng quân lực Do Thái gắn huy chương cho  Yoeli. Tuy nhiên sự vui mừng của không lực Do Thái không được lâu, Tiệp  Khắc, Nga Sô đã ngã qua khối Ả Rập, hủy bỏ những giao kèo bán vũ khí cho  Do Thái. Chuyện rõ ràng, Do Thái cần mua phi cơ Mystère của Pháp để  chống lại những chiếc MIG của Nga Sô.
         Vài ngày sau khi chiếc đầu tiên trong số 12 chiếc Ouragan đáp xuống phi  trường Hatzor, Benny Peled được bổ nhiệm làm phi đoàn trưởng. Trong  những tháng kế tiếp, Do Thái bắt đầu huấn luyện phi công phản lực. Ba  phi công lỗi lạc trong phi đoàn phản lực: Moti Hod, Benny Peled và Amos  Lapidot sau này sẽ trở nên tư lệnh không lực Do Thái.
         Kế hoạch tấn công thủy lộ Tiran đã bắt đầu trước ngày 21 tháng Chín,  ngày mà Nasser ra lệnh không cho tầu bè Do Thái vào vùng vịnh Eilat. Đã  hơn một năm, những chiếc máy bay thám thính Mosquito đã chụp hình vùng  bán đảo Sinai. Ngày 9 tháng Sáu, lữ đoàn Giv’ati ra lệnh cho một toán  biệt kích đi dò thám. Họ phát xuất lúc nửa đêm từ Eilat trên chiến hạm  Eilat của hải quân Do Thái xâm nhập vào một bãi biển vắng ở Dahab trước  rạng đông. Cuộc hành quân dò thám có tên là Yarkon, toán biệt kích có  nhiệm vụ thám thính khu vực lân cận trong vòng ba ngày, sau đó rút ra  biển để tầu hải quân đón về.
         Một chiếc Dakota do Yosef Ofer và Uri Yaffe lái, bay bao vùng làm nhiệm  vụ liên lạc với toán biệt kích hoạt động trong lòng địch. Khi máy bay  Do Thái thả đồ tiếp tế cùng với nước uống xuống cho toán biệt kích lúc  trời tối, họ chỉ thâu hồi được một thùng. Toán biệt kích được lệnh tìm  những thùng đồ thất lạc rồi đem chôn cất để che dấu. Qua ngày thứ ba, bộ  tư lệnh Do Thái được tin tình báo cho biết, các toán quân Ai Cập đang  truy lùng toán biệt kích. Một người Ả Rập Bedouin (sắc dân du mục) đã  trông thấy toán biệt kích lúc họ đổ bộ vào bờ. Vị lữ đoàn trưởng Giv’ati  là Chaim Bar Lev (sau này lên tướng – Phòng tuyến Bar Lev) yêu cầu ban  lệnh hành quân Promontary, xử dụng phi đội Piper đi cứu toán biệt kích.  Tướng Dayan không đồng ý cho rằng, bãi cát nơi bờ biển có thể làm loại  phi cơ Piper sa lầy, làm mất mặt Do Thái trước quốc tế. Vị lữ đoàn  trưởng ra lệnh cứ tiến hành, nhất quyết cứu đám đàn em. Phi công Hanoch  Keret được lệnh dẫn đầu 6 chiếc Piper đi cứu. Đêm hôm đó các phi công  Piper đáp xuống Eilat an toàn đem về món hàng quý giá toán biệt kích  trong lữ đoàn Giv’ati.
         Trong kế hoạch tấn công rộng lớn giải tỏa thủy lộ Titan, không lực Do  Thái đã sẵn sàng oanh kích các phi trường của Ai Cập để lấy thế thượng  phong, làm cánh dù che chở cho không quân cũng như lục quân Do Thái.  Không lực Do Thái đặt tên cho kế hoạch này là hành quân “Slope”, tiêu  hủy các phi cơ, phi đạo, phi trường, căn cứ quân sự của địch. Hai mươi  tám máy bay Harvard và Spifire được trao cho nhiệm vụ tấn công phi  trường lớn El Arish của Ai Cập. Số phi cơ còn lại lãnh nhiệm vụ tấn công  những mục tiêu nơi hướng tây kênh đào Suez: 12 chiếc Mustang tấn công  phi trường Kabrit, 18 chiếc Mosquito và Ouragan nhận trách nhiệm phi  trường El Maza, 14 chiếc Mosquito và Mustang trách nhiệm phi trường  Dewar Souar, 6 phản lực cơ Meteor được lệnh oanh kích, tiêu hủy các oanh  tạc cơ Ilyushin trong phi trường Cairo West. Nhiệm vụ không vận binh  sĩ, đồ trang bị được trao cho 12 chiếc phi cơ vận tải Dakota.
         Tướng “độc nhãn” Moshe Dayan dự trù sẽ đánh chiếm giải đất Gaza, Thủ  Tướng Ben Gurion cũng đồng ý, tuy nhiên quốc hội Do Thái phủ quyết vì  sợ ảnh hưởng đến quốc tế.
         Ngày 5 tháng Mười 1956, trung tâm hành quân Không Quân của Do Thái ở  Ramle bắt đầu nghiên cứu, phát triển thêm kế hoạch hành quân “Slope”.  Dan Tolkowsky cảm thấy chiến tranh đã gần kề trong phòng làm việc của  ông ta. Buổi sáng hôm đó bức mật điện “Tối Khẩn – Kaddesh 1” nhận được  từ phòng hành quân bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực, cho biết quân lực Do Thái  đự trù sẽ đánh chiếm phiá bắc bán đải Sinai và sẽ rải quân đóng bên bờ  phiá đông kênh đào Suez. Không lực Do Thái được lệnh mở đầu cuộc hành  quân (hành quân “Slope”), không vận một lữ đoàn Nhẩy Dù xuống đánh chiếm  khu vực El Arish, và bảo vệ không phận quốc gia. Việc tấn công các phi  trường của địch được nâng lên hàng đầu. Ngày giờ khởi điểm cho cuộc hành  quân sẽ được thông báo sau.
         Những ngày tiếp theo mọi sự chú ý đổ dồn vào phòng tuyến phiá đông.  Trong tháng Chín, quân Nhẩy Dù Do Thái tấn công phá hủy bốn đồn cảnh sát  Jordan, trả đũa cho một loạt khủng bố, giết người xẩy ra trên đất Do  Thái, trong sa mạc Arava và thành phố Jerusalem. Iraq đưa quân vào  Jordan và Do Thái cho rằng sự hiện diện của quân đội Iraq trong khu vực  West Bank là một hành động gây chiến tranh. Không ai biết rằng đó chỉ là  những hành động che mắt cho cuộc tấn công chiếm bán đảo Sinai ở hướng  nam. Cùng với liên quân Anh Pháp, sẽ nhẩy vào đánh chiếm kênh đào Suez.  Giới lãnh đạo Anh, Pháp e ngại rằng, Nasser sẽ ngả theo Nga Sô, ngăn cản  không cho tầu bè của họ xử dụng kênh đào Suez như họ đã làm đối với  người Do Thái. Hành quân Musketeer được soạn thảo giữa Paris và London.  Do Thái đồng ý yểm trợ liên quân Anh Pháp trong một cuộc hành quân riêng  của họ. 
         Ngày 29 tháng Chín, một phi cơ Noratlas Nord 2501 trong phi đoàn vận  tải bay đi Paris, chở theo một phái đoàn gồm những nhân vật quan trọng  trong chính quyền Do Thái, gồm có bà Golda Meir tân tổng trưởng ngoại  giao, tổng tham mưu trưởng Moshe Dayan và Shimon Peres tổng trưởng quốc  phòng. Họ họp với giới lãnh đạo trong chính quyền, quân sự Pháp trong  vòng bốn ngày về những điều căn bản trong sự phối hợp ngoại giao và quân  sự giữa hai quốc gia. Ngày 2 tháng Mười, phái đoàn ra về đem theo các  vị tướng lãnh Pháp để họp với các sĩ quan cao cấp trong không lực Do  Thái. Người Pháp nghiên cứu việc xử dụng các phi trường ở Hatzor, Lod,  và Tel Nof trong trường hợp kế hoạch nguyên thủy cho hành quân Musketeer  xử dụng phi trường trên đảo Cyprus của người Anh để chở quân gặp trở  ngại. Sự thật xẩy ra đúng như vậy, người Ăng Lê không muốn bị mang tiếng  nên rút lui, người Pháp tiếp tục theo đuổi hành quân Musketeer với sự  yểm trợ của Do Thái.
         Người Do Thái vẫn lo ngại, không lực Ai Cập tập trung trong ba căn cứ  vùng thung lũng sông Nile, bốn căn cứ tiền phương dọc theo kênh đào Suez  và ba căn cứ khác khi cần trong bán đảo Sinai. Ai Cập có 210 phi cơ,  150 trong số đó nằm trong 11 phi đoàn tác chiến và oanh kích, tất cả đều  là phản lực. Do Thái có tất cả 176 phi cơ bay được chia ra làm 13 phi  đoàn. Trong số 117 máy bay chiến đấu và thả bom, 64 chiếc không phải là  phản lực.
         Tolkowsky được lệnh giữ bí mật, chỉ ra lệnh chi tiết cho các căn cứ  trưởng, phi đoàn trưởng, các sĩ quan không quân cao cấp không quá 24 giờ  trước khi cuộc hành quân bắt đầu. Ngày 28 tháng Mười, lúc 8 giờ tối,  ông ta ban lệnh hành quân trong phòng họp bộ tư lệnh không quân ở Ramle.  Tolkowsky vào đề ngay: các mục tiêu đầu tiên, thả lữ đoàn Nhẩy Dù xuống  đèo Mitla trong bán đảo Sinai. Ezer Weizman sau đó rời phòng họp, bay  đi Hatzor đón 16 chiến đấu cơ Nord của Pháp với 400 phi công, chuyên  viên cơ khí đến Do Thái để tham chiến.
         Sau khi thuyết trình, ban lệnh hành quân xong, Tolkowsky đi qua trung  tâm hành quân, vị tham mưu trưởng đã có mặt, đang đứng trước màn ảnh  radar. Chatto Tzidon, phi đoàn trưởng phi đoàn phản lực Meteor NF/3  (đánh đêm – Night Fighter) đang bay trên vùng biển Điạ Trung Hải giữa  Haifa và Cyprus tìm chiếc vận tải cơ Ai Cập thường bay từ Damacus đi  Cairo. Trong lúc thuyết trình, Chatto báo cáo: 
-           Phi cơ của tôi đã sẵn sàng. Xin cho biết mục tiêu?
-           Tư lệnh quân đội Ai Cập.  Tolkowsky trả lời.
         Bộ tư lệnh quân lực Do Thái được báo cáo “Tất cả tướng lãnh trong bộ tư  lệnh quân đội Ai Cập đang ở Damacus.”. Người lãnh đạo là Thống Tướng  Abdal Hakhim Amar, tư lệnh quân đội Ai Cập, nhân vật đứng thứ hai sau  Nasser, người đã ký những hiệp ước liên minh quốc phòng với Syria và  Jordan. Buổi tối hôm đó, ông ta cùng với ban tham mưu sẽ trở về Ai Cập  trên một máy bay vận tải quân sự.
         Chiếc Meteor của Chatto đem theo đầy nhiên liệu, sợ phải tìm kiếm chiếc  máy bay chở tướng lãnh Ai Cập lâu trên bầu trời. Bỗng dưng viên phi  công phụ El Yashiv “Shivi” báo cáo:
-           Gặp rồi, gặp rồi, gặp rồi. Nó đang ở hướng hai giờ, cách khoảng ba dặm.
        Shevi tiếp tục báo cáo cho Chatto biết để giảm tốc độ. Chatto vẫn chưa trông thấy gì nhưng vẫn tin tưởng nơi Chevi.
-           Nó ở hướng 11 giờ, khoảng cách 700 thước. Sau đó Chevi báo cáo về cho trung tâm hành quân không quân.
-           Đã trông thấy nó.
-           Tôi muốn phải nhận diện cho chắc chắn. Meir Roff trưởng đài kiểm soát không lưu ra lệnh cho chiếc máy bay Do Thái.
-           Chắc chắn. Đúng như đã cho chúng tôi biết.
-           Tôi cho bạn quyền khai hỏa khi đã nhận diện chính xác.
        Shevi hướng dẫn Chatto lái chiếc Meteor bay đến sau chiếc Dakota chở tướng lãnh Ai Cập. “Khai hoả”.
         Chiếc máy bay Ai Cập bị trúng đạn đông cơ bên trái chao đi, mất đi tốc  độ. Chatto tiếp tục bay theo đuôi để dứt điểm, lần này chàng khai hỏa  khẩu đại bác 20 ly trúng mục tiêu. Chiếc Dakota biến thành qủa cầu lửa  rớt xuống biển, nổ tung lên một lần nữa khi chạm mặt nước.
         Chatto cùng với Shevi lấy lại cao độ rồi bay trở về căn cứ không quân  Ramle, cấp chỉ huy cùng với bạn bè đang chờ hai chàng về để mở  Champagne. Tướng Dayan cũng có mặt, bắt tay hai chàng dũng sĩ “Các bạn  đã thanh toán vị Thống Tướng tư lệnh quân đội Ai Cập cùng ban tham mưu.  Các bạn đã đem về một nửa chiến thắng, hãy uống mừng cho phần thứ hai”.
Chiến Dịch Sinai
         29 tháng Mười 1956, lúc 10 giờ sáng trong căn cứ không quân Tel Nof.  Các cựu quân nhân trong không lực Do Thái gặp lại nhau, hàn huyên tâm sự  không hết chuyện. Họ thuộc đủ mọi phi đoàn, riêng phi đoàn vận tải gần  như tăng gấp đôi, tất cả mọi người trong phi đoàn này được gọi tái ngũ.  Số phi cơ vận tải Dakota mới mua thêm 10 chiếc để đáp ứng nhu cầu hành  quân. Mọi người trong phi đoàn chỉ biết sẽ phải chuyên chở binh sĩ trong  lữ đoàn Nhẩy Dù, nhưng điạ điểm thả dù vẫn còn giữ bí mật trong phòng  hành quân.
         Vài hôm trước, Yael Finkelstein đã bay một trong hai chiếc Dakota đem  về Do Thái. Năm năm trước, trong thời hạn quân dịch bắt buộc, nàng đã  tình nguyện đi học lái máy bay. Rút kinh nghiệm bài học Đệ Nhị Thế  Chiến, nhiều phụ nữ Do Thái đã chiến đấu can đảm bên cạnh các đấng nam  nhi, không lực Do Thái tuyển chọn vài phụ nữ phi công. Yael được thuyên  chuyển về phi đoàn vận tải, Rena Livinson phục vụ trong trường huấn  luyện phi công và Ruth Bookbinder phục vụ trong phi đoàn liên lạc, lái  máy bay hạng nhẹ.
         Yaakov Avisar chỉ huy trưởng phi đoàn vận tải bước vào phòng họp. Ông  ta chỉ cây gậy thuyết trình vào một vòng tròn đen lớn bao quanh kênh đào  Suez trên bản đồ. Một đoàn phi cơ sẽ thả dù một tiểu đoàn Nhẩy Dù trên  mục tiêu vào lúc năm giờ chiều. Đơn vị Dù này sẽ phải chiếm mục tiêu,  thiết lập phi đạo để nhận đồ tiếp tế cũng như tải thương. Phần còn lại  của lữ đoàn Dù sẽ đến sau bằng đường bộ trên xe bọc sắt, vận tải. 
         Các phi cơ chiến đấu sẽ bay theo bảo vệ đoàn máy bay vận tải và bãi đáp  cho quân Nhẩy Dù. Tiểu đoàn Dù này sẽ phải chiến đấu đơn độc trong vòng  24 tiếng đồng hồ cho đến khi các đơn vị tiếp viện đến bằng đường bộ.  Khi quân Ai Cập tấn công, các phi công chiến đấu phải bảo vệ đơn vị Dù.  Địch cũng có thể dùng loại máy bay phản lực MIG của Nga Sô, phát xuất từ  các phi trường gần đó lên không chiến, bắt đầu cho một trận chiến  tranh.
         Trước khi Avisar chấm dứt phần thuyết trình lệnh hành quân, một sĩ quan  bước vào phòng họp trao cho ông ta một tờ giấy. Avisar khẽ mỉm cười  trao cho viên sĩ quan hành quân đọc danh sách các phi hành đoàn. Bộ tư  lệnh đã đồng ý cho phép Yael bay vào đất địch, nàng sẽ là phi công phụ  cho phi đoàn trưởng trên chiếc Dakota dẫn đầu.
         29 tháng Mười 1956, buổi chiều. Nhiều hôm trước đây, Amitai “Shafan”  Hasson, một huấn luyện viên phi công được Tzahik Yavne chỉ huy trưởng  trung tâm huấn luyện yêu cầu nghiên cứu một “vấn đề”. Những tấm không  ảnh, phi cơ thám thính đem về cho thấy quân đội Ai Cập xử dụng đường dây  điện thoại liên lạc giữa trung tâm hành quân ở Sinai và thủ đô Cairo.  Shafan điều nghiên đánh phá đường dây điện thoại của Ai Cập một cách  nhanh chóng hiệu qủa. 
         Ngày hôm trước, Dan Tolkowsky tư lệnh không quân đã họp với các phi  công “đặc biệt” và ban lệnh riêng cho họ. Ba cặp phi cơ Mustang sẽ phát  xuất đầu tiên trước khi chiến dịch Sinai bắt đầu. Khoảng một tiếng đồng  hồ trước khi tiểu đoàn Dù nhẩy xuống đánh chiếm mục tiêu, các phi công  Mustang sẽ phải “nhổ” hai trụ mắc dây điện thoại liên lạc của quân đội  Ai Cập.
         Trong khi chỉ huy trưởng phi đoàn vận tải Yaakov Avisar họp các phi  công trong phi đoàn ban lệnh hành quân, Tzahik gom Harry, Shafan và ba  phi công Mustang nữa họp trong phòng làm việc của mình. Họ phân chia  nhiệm vụ một cách chi tiết, đầy đủ. Harry và Aryeh Zeitlin sẽ cắt đường  dây điện thoại từ Kusseima và Abu Aweigila đến thành phố Suez. Tzahik và  Aryeh Fredlis sẽ kéo đường dây điện thoại đến bộ chỉ huy lữ đoàn Dù của  Arik Sharon để cho họ tùy quyền xử dụng. Arik Sharon là một trong những  huyền thoại trong quân đội Do Thái, sau này lên chức Tổng Tham Mưu  Trưởng, Thủ Tướng, hiện đang lâm trọng bệnh. Shafan và Chaim Naveh sẽ  cắt đường dây từ El Arish đến Abu Aweigila, tiêu hủy hệ thống truyền  tin, liên lạc của quân đội Ai Cập.
         29 tháng Mười 1956, 4:30 chiều. Những chiếc vận tải cơ Dakota vượt biên  giới bay vào bán đảo Sinai, họ bay thật thấp để tránh những dàn radar  của Jordan. Phi đoàn vận tải bay từng đoàn bốn chiếc một cách nhau  khoảng nửa cây số. Hai chiếc nằm lại phi trường Tel Nof làm trừ bị khi  cần thiết, sau đó thả những hình nộm lính nhẩy dù xuống cánh đồng Kabrit  của Ai Cập gần Ismailiya để đánh lạc hướng của địch.
         Trước khi đoàn phi cơ cất cánh, Yaakov Avisar đã kiểm soát đồ trang bị  của phi hành đoàn, dù, áo vest cấp cứu, vũ khí tùy thân. Các phi công  đeo thêm dây nịt cấp cứu, thực phẩm để ăn trong vòng hai ngày, gương cấp  cứu, địa bàn. Vị chỉ huy trưởng để ý người nữ phi công duy nhất trong  phi đoàn, liếc xuống dưới chân Yael. Tốt! Nàng cũng đã đi đôi giầy, thay  cho đôi dép sandal.
         Mỗi chiếc Dakota chở 25 binh sĩ Dù trang bị đầy đủ với nón sắt, súng  đạn. Những chiếc Dakota này sẽ là những mồi ngon cho các phản lực cơ MIG  của Ai Cập nên được các chiến đấu cơ Meteor, Ouragan bay theo bảo vệ.  Phi đoàn tác chiến phải bay chậm theo tốc độ của những chiếc vận tải cơ  Dakota, để giữ bí mật cho đơn vị Dù, họ không thể bay đến trước bãi thả  dù trước các phi cơ Dakota chở binh sĩ Nhẩy Dù.
         Mặc dầu có ít giờ bay hơn nhiều phi công khác, Aharon Yoeli đã là phi  đoàn trưởng phi đoàn Meteor. Chàng cũng là phi công Do Thái đầu tiên bắn  rơi hai phi cơ Ai Cập trong một trận không chiến. Yoeli cùng các phi  công lái Meteor khác để ý bóng dáng phi cơ của địch và sẵn sàng ngăn  chận không cho các chiếc MIG tấn công những chiếc Dakota.
         Ba mươi phút trước đó, Eli Finegersh và Meir Livne lái hai chiếc Meteor  đi tuần, sau đó bay dọc theo bờ biển từ El Arish tới sa mạc Arava để  đánh lạc hướng của địch. Trong khi đó, Yoeli phải quay trở về căn cứ vì  chiếc Meteor gần hết xăng sau một tiếng đồng hồ bay. Moti Hod lên thay  dẫn đầu sáu chiếc Ouragan. Khác với Yoeli, Moti là người từng trải, là  tấm gương cho những phi công trẻ noi theo như David Ivri, Amos Lapidot  sau này sẽ trở nên những vị tư lệnh không lực Do Thái.
         Trong trung tâm hành quân không quân ở Ramle, phi vụ thả hình nộm lính  Dù để đánh lạc hướng địch, xét ra không cần thiết khi phi đoàn phản lực  Mystère gồm có Yak Nevo, Danny Shapira, Yalo Shavit, Joe Alon và Dror  Avneri lên bao vùng.
         Gần 7 giờ tối, đoàn phi cơ Dakota đến mục tiêu, những người lính Dù  nhẩy ra trong màn đêm. Trong tiểu đoàn Dù vừa nhẩy xuống có một phi công  đi theo là Yekutiel Altman làm nhiệm vụ điều không. Đại Tá Rafael  “Raful” Eitan tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Nhẩy Dù vừa xuống báo cáo “Cuộc  đổ bộ đã hoàn tất”. Các phi cơ vận tải Dakota và các phi cơ hộ tống  được lệnh bay trở về căn cứ. 
         Đúng 8:30 tối, đài phát thanh Do Thái loan tin “Quân đội Do Thái đã  chiếm đóng vị trí bên bờ kênh đào Suez” làm sửng sốt dân Do Thái cũng  như trên thế giới. Trong khi đó đơn vị Dù đốt dầu làm dấu hiệu chữ “T”  để cho những phi cơ vận tải Dakota và Nord cất cánh từ phi trường Tel  Nof thả đồ tiếp liệu, vũ khí nặng và thêm 8 xe Jeep xuống cho họ nơi đèo  Mitla. Suốt đêm 29, quân Nhẩy Dù Do Thái bận rộn đào hầm hố, thiết lập  tuyến phòng thủ, không biết trong màn đêm, quân Ai Cập đã lên chiếm ngọn  đèo.
         Buổi sáng 30 tháng Mười 1956. Phi công lái phi cơ Piper Moshe Even,  cùng với một chiếc Piper khác do Moshe Bokai lái đáp xuống phi đạo dã  chiến do toán quân Dù xây tạm thời để tải thương. Ngoài ra các phi công  Piper làm nhiệm vụ liên lạc giữa tiểu đoàn trưởng Eitan và vị lữ đoàn  trưởng Sharon. Gần 8 giờ sáng, Bokai định làm chuyến tải thương đầu tiên  khoảng một chục binh sĩ Dù bị thương lúc nhẩy xuống đêm qua. Bác sĩ  Morris Anklawitz, người được tuyên dương trước đây đi theo để săn sóc  những người bị gẫy chân.
         Đúng 9 giờ sáng, chiếc Piper đã chất đầy thương binh, sẵn sàng cất cánh  bỗng nhiên có một chiếc MIG-15 từ trên trời bay xuống bắn hỏa tiễn và  đại bác 20 ly. Chiếc Piper bị trúng đạn bốc cháy. Bokai bị cháy nơi  chân, vị bác sĩ bị miểng đạn nơi ngực cùng xông vào chiếc máy bay đang  cháy, lôi thương binh ra. Sau đó cả hai được một chiếc Piper khác xuống  đem về Do Thái và được vị Tổng Tham Mưu Trưởng gắn huy chương.
         Dấu hiệu tấn công của không quân Ai Cập bắt đầu với bốn chiếc Vampire  lúc đang bay qua đài kỷ niệm Parker do người Anh xây để tưởng niệm sĩ  quan cao cấp của họ đã hy sinh ở đó trong trận Đệ Nhất Thế Chiến, đài  tưởng niệm nằm trên một trong ba ngã chính vào vùng sa mạc Sinai. Mấy  chiếc MIG đuổi theo, trông thấy đoàn xe chuyển quân dưới quyền Sharon,  các phi công Ai Cập bắn đại liên xuống nhưng không gây thiệt hại.
         Mười hai chiếc Mystère được lệnh bay bao vùng bảo vệ cánh quân Dù ở  dưới đất. Họ bay từng cặp hai chiếc một. Các phi công báo cáo cho Raful,  tiểu đoàn trưởng nhẩy dù xuống đêm qua rằng đoàn quân xa Ai Cập đang  trên đường tiến lên đèo Mitla. Raful cũng chưa biết địch quân đang dàn  quân như thế nào từ đèo Mitla đến kênh đào Suez. Đúng 3 giờ sáng, hai  tiểu đoàn Ai Cập đã dùng cầu nổi vượt kênh đào Suez thiết lập vị trí  phòng thủ trên những sườn đá đèo Mitla.
         Khoảng 12 giờ trưa, đạn súng cối bắt đầu rơi vào vị trí đóng quân của  tiểu đoàn Dù. Quân Ai Cập xử dụng súng cối 120 ly đặt trên ngả ba đường.  Một vị trí quan sát của Do Thái đặt trên một ngọn đồi báo cáo địch quân  đang tiến vào khe núi. Không lực Do Thái nhận được lệnh của tướng độc  nhãn Dayan “Tấn Công”.
         Ngày 30 tháng Mười, lúc 12 giờ trưa nơi đèo Mitla. Raful không đợi  không quân đến cứu nguy, ra lệnh cho khẩu 81 ly trả đũa. Hai chiếc  Ouragan đang bao vùng cũng vừa nhận được lệnh tấn công, lao xuống thả  bom trên đầu đoàn quân tiền phương Ai Cập lúc đó chỉ còn cách tiểu đoàn  Dù khoảng hai cây số. Sau khi hết bom đạn, hai chiếc Ouragan vẫn tiếp  tục làm nhiệm vụ bao vùng, điều khiển những phi tuần khác lên oanh kích,  cho đến khi gần hết xăng mới bay về. Từ vị trí quan sát, quân Do Thái  báo cáo, đại bác của địch đã bị phi cơ oanh kích phá hủy.
         Ngày 30 tháng Mười, buổi chiều trong phi trường Kabrit Ai Cập. Sau gần  hai tiếng đồng hồ, các máy bay Ouragan dưới quyền Moti Hod dáng xuống  đầu quân Ai Cập nơi đèo Mitla. Không lực Do Thái vẫn còn phải đỡ cho  cánh quân Dù dưới quyền Raful chống lại sự tấn công của không quân Ai  Cập phát xuất từ phi trường Kabrit. Gần hết các phi cơ, kể cả 10 chiếc  Mystère đã được xử dụng trong trận oanh kích đèo Mitla, Do Thái chỉ còn  lại 8 chiếc loại mới Mystère IV. 
         Các phi công Mystère IV bay theo hai đội hình ba chiếc, còn lại hai  chiếc bay sau làm trừ bị. Hai mươi phút sau, phi đội dẫn đầu đã trông  thấy kênh đào Suez. Yak Nevo, Shai Egozy và Yosef Tzuk quan sát bầu trời  xung tìm phi cơ MIG của địch. Chỉ có bốn chiếc MIG 15, tuy nhiên các  phi công Ai Cập lợi thế trên đất nhà, gần phi trường. Những chiếc  Mystère chỉ có đủ xăng để không chiến trong vòng 15 phút. Trong khi đó  phi đội thứ hai ba chiếc và hai chiếc trừ bị do Dror Avneri, Dan Gonen,  Shabtai Gilboa, Zorik Lev và Amos Lapidot lái cũng đến nơi. Từ trong phi  trường Kabrit, lên thêm 12 chiếc MIG tổng cộng 16 chiếc MIG đối đầu với  8 chiếc Mystère. Kết qủa trận không chiến, 2 chiếc MIG bị bắn rơi, 1  chiếc Mystère bị hư hại bay về được Do Thái. Các phi cơ Mystère còn lại  phải bay về vì sợ hết xăng dọc đường.
         Ngày 30 tháng Mười, buổi chiều nơi đèo Mitla. Sharon lái chiếc Ouragan,  Ran “Ladia” trên không phận đèo Mitla. Ở dưới là một điạ ngục, quân Ai  Cập bắn đủ loại vũ khí xuống đoàn quân Dù Do Thái. Sharon không biết thả  bom chỗ nào trước, lao xuống thả quả bom 500 kilo xuống ngay hai xe kéo  đại bác, tiêu hủy hai khẩu súng. Lần thứ hai, chàng nhắm vào hai xe vận  tải khác chở đồ tiếp liệu, đạn dược khai hỏa khẩu đại bác 20 ly làm hai  chiếc xe nổ tung, những thùng đạn trên xe nổ tiếp theo.
         Tiểu đoàn 5 bộ binh Ai Cập, đơn vị tiền phương lên đèo Mitla  thiết lập tuyến phòng thủ gần đài tưởng niệm Parker nằm chịu trận vì  không được tiếp tế đạn dược. Các phi cơ Do Thái tiếp tục oanh kích tiểu  đoàn 6 Ai Cập rải quân từ đèo Mitla cho đến kênh đào Suez. Các phi công  Do Thái thông báo cho đơn vị Dù dưới quyền Raful biết rằng đã tiêu hủy  đoàn xe chở đồ tiếp liệu của địch làm các binh sĩ Dù lên tinh thần. 
         Ngày 31 tháng Mười 1956. Lúc 4 giờ 10 phút sáng, trung tâm hành quân  không quân nhận được một công điện khẩn từ bộ tư lệnh hải quân. Một  chiếc tầu lạ pháo kích vào hải cảng Haifa. Chiếc tầu này bị phát hiện  lúc 2 giờ 45 sáng khi còn cách hải cảng khoảng 40 cây số rồi biến mất.  Lúc 3 giờ 30 chiếc tầu lạ lại xuất hiện chỉ còn cách bờ khoảng 10 cây  số, bắn 220 quả đạn đại bác vào hải cảng rồi tẩu thoát. Hai chiến hạm  của hải quân Do Thái, Yaffo và Eilat đang tuần tiểu trong vùng biển  ngoài hải cảng Haifa được lệnh đề phòng sự tấn công của không quân Ai  Cập và truy lùng chiếc tầu lạ.
         Chiến hạm Ibrahim Al Awal của Ai Cập rời bến cảng Said từ đêm trước, âm  thầm đi về hướng Beirut trong màn đêm không bị khám phá. Chiếc tầu này  đã được lệnh bắn phá hải cảng Haifa. Trên đường chạy trốn, chiến hạm Ai  Cập bị phát giác cách Akko khoảng 50 cây số. Sau đó không lực Do Thái ra  lệnh một chiếc máy bay Dakota lên thả trái sáng cho hai chiến hạm Do  Thái Yaffo và Eilat đuổi theo đánh chìm chiến hạm Ai Cập lúc 5 giờ 30  sáng.
         Trước nửa đêm, cánh quân tiền phương, mũi dùi chính lữ đoàn Dù đã bắt  tay được với tiểu đoàn Dù dưới quyền Raful. Khu vực quá hẹp, vị lữ đoàn  trưởng ra lệnh phân tán để tránh hỏa lực phi pháo của địch. Sharon lo  ngại sự hiện diện của đơn vị thiết giáp Ai Cập đã vào bán đảo Sinai từ  hôm trước trên trục lộ chính từ Ismailiya đến Bir Gafgafa. Yehezkiel  Somech phi đoàn trưởng phi đoàn Mosquito là người đầu tiên phát giác ra  ánh đèn của đoàn xe địch. Sharon nhận định rằng, lữ đoàn Dù của ông ta  vẫn phải tiến lên chiếm đèo Mitla để được an toàn hơn khi đụng độ với  đơn vị thiết giáp Ai Cập và để chặn đường tiếp viện của địch từ phiá bên  kia kênh đào Suez.
         Lữ đoàn Dù chuẩn bị di chuyển về hướng tây trước rạng đông, Sharon nhận  được lệnh từ bộ tư lệnh phải đóng quân tại chỗ thiết lập tuyến phòng  thủ. Lệnh rất rõ ràng quân Dù không được tiến lên đèo Mitla và sẽ không  được không yểm cho họ. Lữ đoàn thiết giáp tấn công Abu Aweigila được ưu  tiên trong vấn đề không trợ. Trong khi lữ đoàn Dù nằm chờ lệnh, Sharon  được biết liên quân Anh Pháp đã đình hoãn lại cuộc hành quân Musketeer  trong đó bao gồm việc oanh kích các phi trường của Ai Cập.      
         Nổi giận, Sharon ra lệnh phân tán để tránh oanh kích. Lúc đó bốn chiếc  Vampire của Ai Cập bay xà xuống quan sát rồi bay vút lên cao. Sĩ quan  không trợ Yekutiel Altman theo dõi mấy chiếc phi cơ Ai Cập từ đầu, biết  ngay chúng sắp xửa lao xuống thả bom. Ông ta báo động cho các binh sĩ Dù  xuống hố cá nhân rồi qua tần số không-lục liên lạc với phi tuần Mystère  đang bao vùng cho đơn vị Dù. Altman liên lạc với hai phi công Shai  Egozi và Yalo Shavit cho biết vị trí của bốn chiếc Vampire Ai Cập.
         Hai phản lực cơ Mystère xuống cao độ 10 ngàn bộ. Egozi nhìn thấy rõ đội  hình phi cơ địch bay rất gần, cách nhau khoảng 20 thước. Bốn phi công  Ai Cập cũng trông thấy hai phi cơ Do Thái. Egozi khai hỏa khẩu đại bác  20 ly, một chiếc Vampire trúng đạn rớt, chiếc thứ hai bị hư hại vội tách  rời đội hình bẻ góc qua hướng khác. Chiếc Mystère thứ hai do Yalo lái  đuổi theo sau đuôi hai chiếc khác bắn hạ cả hai. Egozi không thèm đuổi  theo chiếc bị trúng đạn hư hại, viên phi công Ai Cập đã nhẩy dù ra và  chiếc máy bay rơi xuống đất. Đó là lần đầu tiên hai máy bay Do Thái bắn  rớt bốn phi cơ của địch.                 
         Phi vụ đầu tiên của Cheetah vào trung tâm Sinai. Lúc 9 giờ sáng, Harry  Crasenstein phi đoàn phó tập họp các phi công “Grasshopper” lại, họ vừa  mới học lái xong đang chờ bổ xung cho các phi đoàn tác chiến. Harry  thông báo sáng nay sẽ có một vị phi đoàn trưởng lừng danh mới. Đó chính  là Avram Yaffe, trưởng phòng hành quân trong bộ tư lệnh không quân, ông  ta không thích ngồi trong trung tâm hành quân, chỉ thích tung bay, đi  đánh giặc. Yaffe ban lệnh hành quân cho các phi công trẻ rằng họ sẽ oanh  kích đoàn xe thiết giáp của địch đã tiến tới Bir Gafgafa và sẽ chỉa mũi  dùi xuống Abu Aweigila và Umm Katef. Đơn vị thiết giáp Do Thái đã quần  thảo với địch từ sáng sớm. Phi đoàn của Yaffe có nhiệm vụ oanh kích  không cho thiết giáp địch tiếp viện.
         Các phi cơ cánh quạt Mustang từ thời Đệ Nhị Thế Chiến trong phi đoàn đã  sẵn sàng xăng nhớt, đạn dược và bom Napalm. Yaffe dẫn đầu phi đoàn bay  sát đầu ngọn cây và giữ im lặng vô tuyến. Họ bay dọc theo bờ biển rồi rẽ  vào vùng biển cát trong sa mạc Sinai. Yaffe ra lệnh “Grasshopper! Chuẩn  bị vũ khí. Tôi muốn đánh cho chính xác, để ý theo đuôi máy bay phe ta.”  
         Các phi công Do Thái đã trông thấy bụi bay lên do đoàn xe địch di  chuyển. Đoàn chiến xa T-34 của Nga Sô cùng với xe chở đạn, đồ tiếp vận  Ai Cập từ từ hiện rõ ra. Yaffe lao xuống thả quả bom Napalm vào giữa  đoàn xe, làm cháy 6 chiến xa T-34 và xe chở đạn. Các phi công  Grasshopper khác xuống theo thả bom rồi bay vút lên chuẩn bị cho tour  thứ hai và những chuyến kế tiếp.
         Hết bom đạn, các phi công Mustang bay về căn cứ theo lộ trình ngắn  nhất, để lại những cột khói đen trong sa mạc. “Grasshopper 1, đây là số  3, tôi bị trúng đạn” Uri Schlessinger gọi một phi công bạn, rồi tách ra  khỏi đội hình. “Bay theo anh ta” Yaffe ra lệnh cho đàn em. Người phi  công số 1 gọi “Uri, bạn bị trúng đạn chỗ nào?”, Uri cố gắng trả lời  nhưng không nghe rõ, chứng tỏ chàng bị thương nặng. Khi họ gần tới  Nitzana, phi công số 1 khuyến khích Uri “Mình sắp vào không phận Do  Thái, sắp về đến nhà” Uri hạ cao độ cố gắng đáp bằng bụng để cứu chiếc  máy bay. Khi toán cấp cứu đến chỗ chiếc Mustang lâm nạn, họ báo cáo cho  vị phi đoàn trưởng “Uri Schlessinger đã chết trong buồng lái”
         Đoàn quân Ai Cập bị kẹt cứng giữa Bir Gafgafa và Bir Hama, không thể  đến tiếp cứu lữ đoàn 6. Đơn vị này nằm giữ Abu Aweigila và Umm Katef lộ  trình chính đến kênh đào Suez bị bỏ rơi, mặc cho số phận. Lữ đoàn 3  Thiết Giáp Ai Cập được lệnh đi tiếp cứu, phát xuất từ El Arish cũng  không bắt tay được với quân bộ binh bị bao vây. Các đơn vị đi tiếp cứu  bị Ezer Weizman và Moti Hod chỉ huy 110 phi tuần gồm các loại máy bay  Ouragan, Mustang, Meteor và Mosquito đánh cho tan tành.
         Tin tức chiến thắng báo về trung tâm hành quân tới tấp, bộ tư lệnh quân  lực Do Thái ra lệnh cho Asaf Simhoni bộ tư lệnh Phương Nam (Southern  Command) xử dụng thiết giáp tấn công sớm hơn dự trù. Bộ tư lệnh không  lực Do Thái đem tất cả những phi cơ còn lại kể cả Mystère vào yểm trợ  cho cuộc tấn công. Đây cũng là ngày khó khăn nhất cho các phi công Do  Thái, 29 máy bay bị trúng đạn phòng phông, mất đi chín chiếc, nhiều  chiếc khác không bay về được căn cứ. Hơn nửa số máy bay bị trúng đạn là  loại máy bay cánh quạt Mustang, hai phi đội trưởng tử trận.
         Lúc 9 giờ sáng trên không phận Bir Hama, Yak cùng với Yosef Tzuk gặp  phải ba chiếc MIG-15 của Ai Cập. Sau năm phút không chiến, hai phi cơ Do  Thái bay về căn cứ vì sợ không đủ nhiên liệu. Trên đường bay về họ gặp  hai chiếc MIG khác, Yak nổi giận đuổi theo sau đuôi hai chiếc máy bay Ai  Cập, chàng bắn trúng một chiếc rớt xuống biển Điạ Trung Hải. Lúc 12 giờ  30, sau khi lấy thêm xăng, vũ khí, người hùng Yak bắn rớt thêm một  chiếc MIG-15 khác. Viên phi công Ai Cập nhẩy dù ra nhưng dù không  mở.         
         Cũng vì những trận đánh với thiết giáp Ai Cập, không lực Do Thái đã tập  trung mọi nỗ lực trong mặt trận trung tâm bán đảo Sinai, do đó lữ đoàn  Dù dưới quyền Sharon bị cấm không được tiến lên đèo Mitla. Đúng 3 giờ 30  chiều, bốn chiếc Meteor Ai Cập được sáu chiếc MIG-15 hộ tống xuất hiện  trên bầu trời nơi lữ đoàn Dù đang đóng quân. Các phi cơ Ai Cập oanh kích  lữ đoàn Dù bằng hỏa tiễn và đại liên, kết qủa 7 binh sĩ Dù tử trận, 20  bị thương. Sharon báo cáo, xin không yểm, tuy nhiên không được đáp ứng.  Tối hôm đó, ông ta cho hai đại đội lên đánh cận chiến chiếm vài ngọn đồi  nơi đèo Mitla. Tổng kết trong ngày, Do Thái có 38 quân nhân tử trận,  120 người khác bị thương. Tối hôm đó, các phi công người Pháp bay loại  máy bay vận tải Nord đem đồ tiếp tế, thực phẩm, nước uống đến cho binh  sĩ Dù và di tản những người bị thương.
         Cũng trong đêm đó, Liên Hiệp Quốc yêu cầu ngưng bắn và cả hai bên đều  rút quân ra khỏi bán đảo Sinai. Phiá Do Thái không đồng ý vì họ mới đạt  được một nửa mục đích, vẫn chưa lấy được Abu Aweigila. Một lữ đoàn khác  vẫn chưa đến phiên tấn công chiếm thủy lộ Tiran. Các mục tiêu giữa Gaza  và El Arish vẫn chưa động tới.
         Ba chiếc pháo đài bay B-17 (hạng nặng vào thời đó) đã chuẩn bị. Trước  đó, mục tiêu hoạch định cho máy bay B-17 là thả bom tiêu hủy các pháo  đài bay Ilyushin do Nga Sô cung cấp đang đậu trong phi trường Cairo West  vàcố tình nhầm lẫn cho vài qủa rơi vào thủ đô Cairo của Ai Cập. Sau lời  yêu cầu của Liên Hiệp Quốc, các pháo đài bay B-17 được lệnh mới thả bom  Rafah. Trước 3 giờ sáng, Yaakov “Blackie” Ben Chaim hướng dẫn ba chiếc  B-17 đến mục tiêu, được máy bay Harvard bay trước thả hỏa châu chiếu  sáng mục tiêu, căn cứ quân sự của quân đội Ai Cập ở dưới.
         Được không quân yểm trợ, tiểu đoàn 1 Thiết Giáp trong lữ đoàn Barak,  một trong những đơn vị ưu tú trong quân lực Do Thái tiến quân như vũ  bão. Tiểu đoàn này đi vòng qua phòng tuyến Ai Cập nơi Abu Aweigila cắt  đường rút quân của địch. Lữ đoàn Barak cùng với phi đoàn Ouragan yểm trợ  vẫn chưa được biết các đơn vị Ai Cập trong bán đảo Sinai đã nhận được  lệnh rút từ Cairo. Các phi trường bên bờ kênh đào Suez bị oanh kích tơi  bời từ đêm qua, các chiến hạm của liên quân Anh Pháp đã vào vùng biển  Điạ Trung Hải đe doạ sự tấn công vào thủ đô Cairo, do đó Nasser phải ra  lệnh rút quân về.                         
         Căn cứ quân sự Rafah rơi vào tay Do Thái dễ dàng dưới sự tấn công phối  hợp giữa hai lữ đoàn bộ binh Golani và thiết giáp Barak. Trước đà thắng  lợi, không lực Do Thái đem cả phi đoàn huấn luyện vào chiến trường. Mười  hai chiếc phi cơ cánh quạt Mustang đem theo bom Napalm thả bom xuống  đoàn xe thiết giáp Ai Cập trên đường rút ra khỏi El Arish. Buổi trưa hôm  đó, quân bộ binh, thiết kỵ Do Thái vào đến El Arish không tìm thấy bóng  dáng quân đội Ai Cập, ngay cả phi trường gần đó cũng chỉ còn là một  cánh đồng cát. Lập tức, không lực Do Thái đem chuyên viên, máy bay đến  phi trường vừa mới chiếm được. Phi trường El Arish trở nên căn cứ không  quân tiền phương cho những trận đánh cuối cùng.
         Sáng hôm sau, phi đoàn Ouragan bay yểm trợ lữ đoàn Bar Lev (Ông nay sau  lên tướng nằm chống đỡ phiá nam Do Thái, gọi là phòng tuyến Bar Lev)  truy kích đoàn quân triệt thoái Ai Cập đang rút về phiá kênh đào Suez.  Đoàn quân xa, thiết giáp Ai Cập càng ngày càng ngắn đi và mỏng ra vì  những trận oanh kích của không quân, các ổ súng phòng không cũng thưa  thớt, kém hiệu quả, làm mục tiêu dễ dàng cho các phi công Do Thái.
         Ngày 5 tháng Mười Một, 160 tiếng đồng hồ kể từ khi chiến tranh bắt đầu,  quốc kỳ Do Thái tung bay trên thành phố Sharm Al Sheikh và phi trường.  Vị tổng tham mưu trưởng quân lực Do Thái đến thăm, đem theo lời khen,  lời nhắn nhủ của thủ tướng David Ben Gurion. Trước hàng trăm binh sĩ,  với gương mặt dạn dầy gió sương, bão cát sa mạc “Yotvat tên cũ của  Tiran, cách đó 1400 năm là đất của người Do Thái, ngày hôm nay sẽ thuộc  về quốc gia Do Thái mãi mãi”.
         Ngày 7 tháng Ba năm 1957, quân lực Do Thái rút ra khỏi bán đảo Sinai để  đổi lấy sự bảo đảm cho tầu bè Do Thái được đi lại tự do trên thủy lộ  Tiran, và một đạo quân Liên Hiệp Quốc sẽ đóng dọc theo biên giới Do  Thái. Hiệp ước này không bền lâu, mười năm sau (1967)
Do  Thái chứng tỏ sức mạnh về quân sự của mình trên thế giới qua trận chiến  thắng chớp nhoáng (Trận Chiến 6 Ngày), trận chiến thắng trên bán đảo  Sinai vừa qua chỉ là đoạn kết của chương đầu trong lịch sử Do Thái mà  không lực đã ghi công đầu. 
IV. THỜI GIAN IM LẶNG (1957-1967)
         Đoàn xe thiết giáp cuối cùng của Do Thái rời khỏi El Arish vào đầu  tháng Ba năm 1957. Trước áp lực của Liên Hiệp Quốc, Do Thái phải trả lại  những phần đất đã chiếm được của Ai Cập trong đó có El Arish và phi  trường quân sự. Do Thái định “lấy luôn” El Arish để xử dụng căn cứ không  quân rộng lớn có giá trị chiến lược, bây giờ phải trả lại cho địch quân  ... Biết trước ý định của Liên Hiệp Quốc, Do Thái đã ném bom cho tan  tành căn cứ không quân ở El Arish. Tướng “Độc Nhãn” Moshe Dayan, tổng  tham mưu trưởng quân lực Do Thái tuyên bố, ông ta sẽ là người cuối cùng  ra khỏi El Arish trên một xe bán xích sắt. Ezer Weizman phải thuyết phục  vị tướng “nóng như lửa” lên chiếc máy bay của mình. Phi trường El Arish  chỉ cách thủ đô Tel Aviv vài phút đồng hồ bay về tay người Ai Cập.
         Không đầy một tháng sau chiến dịch Sinai, Ezer bàn giao chức vụ chỉ huy  căn cứ không quân ở Hatzor cho Moti Hod. Ezer Weizman lên nắm nhiệm vụ  mới tư lệnh sư đoàn Không Quân và trong tương lai sẽ là tư lệnh Không  Quân Do Thái. Một cấp chỉ huy điềm tĩnh, lịch sự, lý tưởng cho đàn em  noi gương. Dưới quyền chỉ huy của Ezer Weizman, mọi công việc giấy tờ,  hành chánh đều có trật tự, ngăn nắp.
         Đúng ra Ezer Weizman được đề cử từ trước nhưng vì chiến dịch Sinai nên  phải dời lại. Ezer học hỏi được nhiều điều qua hai trận chiến vừa qua.  Không lực Do Thái phải là bức tường thành kiên cố bảo vệ quốc gia, trước  hết phải loại bỏ tất cả mọi máy bay cánh quạt, các nước tân tiến trên  thế giới đã bước sang kỷ nguyên phản lực, và phải mua những loại chiến  đấu cơ mới nhất tối tân nhất để giữ thế thượng phong. Hệ thống chỉ huy  cũng phải cải tiến lại, trận chiến kế tiếp sẽ khốc liệt hơn.
         Trong vấn đề phòng thủ, Ezer gặp trở ngại khi họp với sĩ quan cao cấp  trong các đơn vị bạn. Ezer nhấn mạnh, trên chiến trường điều tốt nhất là  xử dụng máy bay và phi công thay vì theo đuổi chiến thuật cổ điển. Xử  dụng phi cơ oanh kích, đập tan đoàn xe thiết giáp cơ giới của địch trước  khi chúng ra đến bãi chiến trường. Điều này làm nhẹ gánh cho đơn vị bộ  binh và thiết giáp của ta. Không quân cũng có thể đưa một lữ đoàn Nhẩy  Dù vào sâu, sau lưng địch quân, đó cũng là phương tiện chuyển vận nhanh  nhất, hiệu qủa nhất. Ezer Weizman làm tư lệnh không quân được 20 tháng,  vẫn phải cố gắng thuyết phục cấp chỉ huy các đơn vị bộ binh về một quan  niệm chiến tranh mới “Xử dụng tối đa Không Quân”. Trong khi đó tướng  Chaim Laskov lên thay tướng “Độc Nhãn” Moshe Dayan làm tổng tham mưu  trưởng quân lực Do Thái. Ezer cảm thấy như được “xả hơi”, tướng Chaim  Laskov đã từng là tư lệnh không quân và là bạn thân của Ezer. Tướng Ezer  Weizman lên thay Tolkowsky nắm quyền tư lệnh không quân ngày 25 tháng  Bẩy năm 1958, lúc đó mới 34 tuổi. Ezer rất quý trọng Modi Alon, vị phi  đoàn trưởng phi đoàn tác chiến đầu tiên. Alon chỉ huy các đàm em phi  công bằng phong cách của một người đàn anh chứ không dựa vào thâm niên  chức vụ hoặc bằng quyền lực. Ngoài ra Ezer rất lưu tâm đến hoàn cảnh cá  nhân, gia đình của các quân nhân thuộc cấp. Ông ta thường mở những buổi  nói chuyện “tâm tình, nói thẳng” rất vui vẻ làm cho gia đình không quân  của ông ta rất đầm ấm thân mật và trung thành với cấp chỉ huy, quốc gia  của họ.
         Gần hai năm im lặng vùng biên giới phiá nam, rắt rối bắt đầu xẩy  ra nơi biên giới phiá bắc. Ai Cập và Syria liên minh thành lập Cộng Hòa Ả  Rập Thống Nhất (United Arab Republic). Các tiền đồn Syria trên cao  nguyên Golan Height, nhìn xuống Galilee, thung lũng Hula Valley và thung  lũng sông Jordan tấn công những nông gia Do Thái và pháo kích vào dân  làng trong khi họ đang làm việc ngoài đồng. Để chuẩn bị cho một trận  chiến mới có thể xẩy ra, Tướng Ezer Weizman đề cử một sĩ quan mới vào  nhiệm vụ tình báo. Viên sĩ quan này có nhiệm vụ theo dõi, phỏng đoán sức  mạnh về không quân của địch: số máy bay, phi công và cả khả năng kinh  nghiệm của các phi công Ả Rập. Hành quân Musketeer do không lực Anh Pháp  đảm trách trước đây không thành công vì thiếu yếu tố tình báo. Tình báo  phe Đồng Minh quá lo sợ những phi cơ MIG do Nga Sô chế tạo, không đánh  giá được khả năng tác chiến của các phi công Ai Cập. Kinh nghiệm bài học  chiến dịch Sinai, Ezer xin thêm ngân khỏa mua loại máy bay Super  Mystère của Pháp, trang bị thêm hai đại bác 30 ly cho các loại phản lực  cũ. Không lực Do Thái cũng mua thêm loại phản lực Vautour để thay thế  những chiếc máy bay cánh quạt Mosquito. Loại Vautour là máy bay chiến  đấu vẫn có thể đem theo bốn tấn bom và tầm hoạt động xa 2000 dặm, có thể  tấn công những mục tiêu, phi trường nằm sâu trong đất địch.
         Vấn đề tuyển chọn phi công trong không lực Do Thái cũng rất khó khăn,  cho đến năm 1990, chương trình huấn luyện phi công chia ra làm sáu giai  đoàn và những kỳ thi khảo hạch khó khăn ở cuối mỗi giai đoạn:
1.          Giai đoạn Sơ Khởi kéo dài bốn tháng, các khóa sinh được huấn luyện về  những quy luật lái máy bay, vật lý, không gian, thể dục và tập bay loại  máy bay Piper.
2.         Giai đoạn Chuẩn Bị hoàn toàn học dưới đất về căn bản quân sự như di hành, vũ khí, định phương hướng, điạ bàn, bản đồ.
3.          Giai đoạn Đầu huấn luyện về các loại máy bay và chuyến bay một mình đầu  tiên. Cho đến năm 1962, trong giai đoạn này các SVSQ/KQ được huấn luyện  lái máy bay Harvard, sau năm 1962 họ học bay loại Tzukit, chế tạo tại  Do Thái theo kiểu phi cơ Fouga Magister của Pháp. Cũng trong giai đoạn  này, các SVSQ/KQ được phân loại để chuẩn bị theo học giai đoạn kế tiếp:  chiến đấu, trực thăng hoặc navigator (SQ Định Hướng bay).
4.          Giai đoạn Căn Bản tập trung vào lãnh vực chuyên mộn của người sĩ quan  đã được phân loại từ giai đoạn trước. Không lực Do Thái không đủ sĩ quan  huấn luyện lái máy bay trực thăng, nhiều SVSQ/KQ được gửi sang Hoa Kỳ  học lái trực thăng.
5.         Giai đoạn Cao Cấp huấn luyện về cấp cứu, nhẩy dù, tình báo, lãnh đạo chỉ huy và tổ chức của không lực Do Thái.
6.         Giai đoạn Cuối các SVSQ/KQ trở lại bay loại báy bay Tzukit ngày và đêm, sau này đổi qua loại A4-E Skyhawk.
         Một trong những huyền thoại trong trường huấn luyện phi công Do Thái là  trường hợp một chuyên viên cơ khí máy bay Messerschmitt, anh ta xin đi  học bay và bị loại trong khoá huấn luyện năm 1949. Sau đó anh ta “mượn  đỡ” một chiếc Piper bay qua Turkey rồi bay về để chứng tỏ các huấn luyện  viên đã sai lầm khi loại anh ta ra khỏi khóa huấn luyện. Đó chính là  Amnon, một người dân sống trong làng chiến đấu, sau này trở nên “Tay sát  thủ MIG” nổi tiếng và phi đoàn trưởng phi đoàn tác chiến.
         Khóa huấn luyện sĩ quan không quân kết thúc bằng buổi lễ gắn cánh bay.  Đó là một trong những giây phút hãnh diện nhất trong đời một phi công Do  Thái. Khoảng 15% trong số SVSQ theo học bay được tốt nghiệp, và phải  mất một thời gian nữa, những phi công “thượng hạng” của Do Thái sẽ được  lấy ra trong số 15% sĩ quan tốt nghiệp.
         Qua kinh nghiệm chiến dịch Sinai, Do Thái mua thêm phản lực cơ Super  Mystère thành lập phi đoàn mới với nghiệm vụ ngăn chận, bảo vệ không  phận, đánh đuổi những chiếc MIG của địch. Phi đoàn trưởng là Yak Nevo,  tánh tình trầm lặng lúc đó mới 26 tuổi nhưng đã nổi tiếng về số phi cơ  địch bị chàng bắn rơi trong những trận không chiến. Yak cùng với các phi  công Super Mystère trong phi đoàn biết rằng, với tốc độ phản lực, họ  không có thời gian để suy nghĩ. Kết qủa của những trận không chiến trong  tương lai tùy thuộc vào kinh nghiệm và sự quyết định nhanh chóng trong  vòng một giây đồng hồ.
         Những phi đoàn MIG-17 của Ai Cập thay phiên nhau vào trấn đóng trong  căn cứ không quân El Arish hàng tháng. Mỗi lần họ đổi phi đoàn, Do Thái  đều biết lý do rất dễ hiểu, các phi công mới đến thường bay một vòng dọc  theo biên giới Do Thái để ra oai. Các phi công Ai Cập không biết, phi  đoàn Super Mystère của Do Thái theo dõi họ rất kỹ. 
         Chuyện xẩy ra vào tháng Mười Hai năm 1958, các phi công Ai Cập theo  thông lệ bay dọc theo biên giới Do Thái từ Rafah đến Eilat. Buổi sáng  ngày thứ Bẩy 20 tháng Mười Hai, Yak Nevo dẫn đầu bốn chiếc Super Mystère  bay trên không phận Nitzana. Bốn chiếc MIG-17 của Ai Cập cũng đang bay  tuần tiễu trong vùng sa mạc Sinai. Được đài kiểm soát không lưu thông  báo có phi cơ Ai Cập gần đó, Yak ra lệnh cho hai chiếc Super Mystère ở  lại trên vùng, rồi cùng với Ohad Shadmi bay về hướng biên giới. Các phi  công Ai Cập phát hiện phi cơ Do Thái, họ bay theo đội hình chiến đấu,  một cặp bay trên đầu một cặp khác trên cao độ 30 ngàn bộ. Yak cùng với  Ohad bay lên cao hơn bốn chiếc MIG-17.
         Cả hai loại máy bay MIG-17 và Super Mystère có vài điểm tương đồng, cả  hai đều có tốc độ vượt bức tường âm thanh, có thể lên cao 40 ngàn bộ.  Đuôi của chiếc MIG-17 dài hơn, bay đầm hơn và có hỏa lực hùng hậu với  hai đại bác 37 và 23 ly.
         Hai phi cơ Do Thái ở thế thượng phong, bay cao hơn và bất thần xuất  hiện. Cả bốn chiếc MIG-17 đều tìm cách tẩu thoát khi trông thấy hai  chiếc Super Mystère lao về phiá họ. Yak quay vòng xuống phiá đuôi hai  chiếc MIG-17 bay ở dưới. Chàng khai hỏa khẩu đại bác lần đầu hụt, hai  chiếc MIG-17 tách rời bay hai hướng khác nhau. Yak đuổi theo chiếc  MIG-17 mà chàng nghi là phi công trưởng Ai Cập, khi còn cách khoảng 300  thước Yak khai hỏa lần nữa trúng cánh chiếc phi cơ địch. Chiếc MIG-17 bị  trúng đạn quay vòng trên bầu trời, viên phi công nhẩy dù ra, chiếc phi  cơ địch rớt xuống khoảng giữa Nitzan và Bir Lahfan.
         Đó là lần đầu tiên bắn hạ phi cơ Ai Cập sau chiến dịch Sinai, một phản  lực cơ tối tân nhất của khối cộng sản MIG-17 làm bộ tổng tham mưu quân  lực Do Thái ngạc nhiên. Đêm thứ Bẩy, Ezer phải lên báo cáo về trận không  chiến cho tướng Chaim Laskov tổng tham mưu trưởng. Laskov e ngại người  Hoa Kỳ, Nga Sô sẽ có phản ứng bất lợi cho Do Thái về tội khai chiến. Qủa  nhiên, cả hai vị tướng được lệnh đến nhà thủ tướng Ben Gurion báo cáo  về trận không chiến vừa qua. Sau khi nghe thuyết trình, vị thủ tướng  tỉnh bơ “Kệ họ” và ngỏ lời khen ngợi các phi công Do Thái.
         Gần một năm trôi qua, Yak Nevo thấy cần phải “Đọ sức” để khỏi nhàm  chán. Biết được phi tuần phản lực của địch ở El Arish sắp được thay thế  vào đầu tháng Mười Một 1959, và họ đã học được bài học từ năm trước, Yak  tổ chức “phục kích”. Lần này tất cả các phi đội bốn chiếc Super Mystère  đều có nhiệm vụ, Ivri và Yair Barak sẽ làm mồi nhử địch. Hai phi cơ  “mồi” sẽ bay về hướng Ai Cập để dụ các chiếc MIG-17 lên ngăn chặn qua  phông phận Do Thái, trong khi đó Yak cùng các phi công khác sẽ bay một  khoảng cách phiá sau.          
         Đúng như Yak đã tiên đoán, trận không chiến xẩy ra vào giữa trưa ngày 4  tháng Mười Một. Khi đài kiểm soát không lưu thông báo có phi cơ địch  lên vùng, Ivry và Barak đổi hướng bay trở lại trên những biển cát vùng  Chaltza. Bốn chiếc MIG-17 vướng mồi bay vào trong sa mạc Negev, trên  không phận Do Thái. Yak cùng một chiếc Super Mystère khác bay đến bắn  đại bác trúng một chiếc nhưng không rớt, mấy chiếc còn lại tẩu thoát trở  về Ai Cập. 
         Trong tháng Giêng 1958, không lực Do Thái thành lập phi đoàn trực thăng  đầu tiên với Uri Yarom làm phi đoàn trưởng. Do Thái đã nhận thấy tầm  mức quan trọng của trực thăng. Thủ tướng Ben Gurion đã đòi hỏi trực  thăng để đem đồ tiếp tế đến thành phố bị bao vây Jerusalem trong trận  chiến độc lập. Các đơn vị xung kích Palmach cũng cần trực thăng để di  tản thương binh. Tướng lục quân Yigal Yadin cũng muốn có trực thăng để  đưa quân vào vùng hành quân một cách nhanh chóng.
         Do Thái được các quốc gia Ả Rập coi là kẻ thù không đợi trời chung,  những năm đầu thập niên 1960 là giai đoạn tranh đua vũ trang trong thùng  thuốc súng Trung Đông. Tổng thống Ai Cập lúc đó gần như đã thiết lập  được vương quốc Ả Rập, siết chặt sợi dây treo cổ nước Do Thái. 
         Trong tháng Năm 1961, tình báo Do Thái biết được, Ai Cập đang sửa xoạn  thử hỏa tiễn trong ngày lễ mừng Cách Mạng 23 tháng Bẩy. Do Thái đã biết  từ đầu năm, loại hỏa tiễn cho lục quân đã được thử trong những phòng thí  nghiệm ở Thụy Sĩ và người Hoa Kỳ đã bán nhiên liệu cho loại hỏa tiễn  này. Do Thái cũng đã chế tạo hỏa tiễn, sẵn sàng đưa lên dàn phóng thử  vào ngày 5 tháng Bẩy. Hỏa tiễn Shavit 2 cân nặng một phần tư tấn có thể  bay lên cao 80 cây số. Mặc dầu Do Thái thông báo là hỏa tiễn dùng để  nghiên cứu không gian nhưng ý đồ xử dụng cho quân sự quá rõ ràng. Một  năm sau, Ai Cập đem trình làng bốn hỏa tiễn có tên là “Al Kahar – Kẻ  chinh phục”, và “Al Zafir – Kẻ chiến thắng”. Nasser tuyên bố các hỏa  tiễn Ai Cập đủ sức tàn phá những mục tiêu ở phiá nam Beirut (Do Thái). 
         Cơ quan tình báo lừng danh Do Thái Mossad khám phá ra một nhóm khoa học  gia người Đức (Cha đẻ ra hỏa tiễn) và các công ty Âu Châu đang làm việc  cho một dự án của Ai Cập. Mossad lập tức gửi những qủa bom nhỏ qua bưu  điện tặng những nhà khoa học người Đức và tìm cách làm trì hoãn vật liệu  chế tạo hỏa tiễn đến Ai Cập. Những quả bom nhỏ chỉ làm bị thương các  khoa học gia người Đức làm họ hoảng sợ rời Ai Cập trở về Đức từng người  một. 
         Cuộc chạy đua vũ khí chuyển qua giai đoạn khác, Ai Cập phát triển vũ  khí hoá học và đem ra xử dụng đàn áp những cuộc nổi loạn đòi quyền tự  trị ở Yemen. Do Thái vẫn giữ bí mật cho đến mùa thu năm 1988 họ mới cho  thế giới biết đã phóng vệ tinh đặt tên là Ofek 1 lên không gian. Họ vẫn  chối không nhận là đã có loại hỏa tiễn mang tên Jericho có thể mang theo  đầu đạn nguyên tử chế tạo trong nhà máy ở Dimona.   
         Trong tháng Hai năm 1958, Ai Cập và Syria liên minh chuẩn bị cho một  trận chiến mới. Syria tấn công và pháo kích những làng chiến đấu Do Thái  dọc theo lằn ranh giới hướng đông bắc. Sáng ngày 1 tháng Hai năm 1960,  Do Thái mở trận đột kích trả đũa lần đầu tiên sau chiến dịch Sinai. Một  đơn vị thuộc lữ đoàn Golani tấn công thiêu hủy một số nhà, vị trí chiến  đấu của Syria trong làng Lower Tufik. Hai tuần sau vị đại sứ Nga Sô tại  Ai Cập cho Nasser biết trận đột kích vừa qua của Do Thái vào đất Syria  mới chỉ là phần đầu, nhiều lữ đoàn khác đang tập trung trong vùng  Galilee.
         Ngày 18 tháng Hai, Ai Cập bí mật đưa một số đơn vị thiết giáp cùng với  ba lữ đoàn bộ binh vào bán đảo Sinai. Các đơn vị tác chiến Ai Cập đóng  quân dọc theo biên giới Do Thái bốn ngày chờ lệnh. Qua ngày thứ năm, hai  phi cơ thám thính Vautour của Do Thái bay vào thám thính vùng Sinai đem  về nhiều tấm không ảnh làm bộ tổng tham mưu quân lực Do Thái lo ngại.  Bốn trăm chiến xa Ai Cập bố trí giữa Jabel Libni và Abu Aweigila. Tướng  Yitzhak Rabin, trưởng phòng hành quân bộ tổng tham mưu chỉ huy cuộc hành  quân Rotem nhằm chống lại lực lượng xâm lăng Ai Cập. Tướng Ezer Weizman  cũng được lệnh cho không quân báo động. Quân đội Do Thái ban lệnh động  viên một số quân trừ bị và đưa lữ đoàn thiết giáp Barak cùng với lữ đoàn  Golani xuống phiá nam sẵn sàng trợ chiến.
         Ba mươi chiến xa thuộc bộ tư lệnh Phương Nam (Southern Command) cùng  với xe bọc sắt của Liên Hiệp Quốc nằm chờ sẵn, trường hợp quân đội Ai  Cập vượt biên giới qua đất Do Thái. Được hai tuần lễ, quân Ai Cập rút  lui ra khỏi bán đảo Sinai. Thực ra Nasser chỉ muốn biểu dương lực lượng.  Ezer tiếc chưa được “thử” sức mạnh của không lực. Chuyện xẩy ra cho  thấy tình báo Do Thái đã thất bại, để cho quân Ai Cập xâm nhập bốn ngày  mà vẫn chưa phát giác. Chuyện Nga Sô, Ai Cập tái diễn lẫn nữa vào năm  1967 đưa tới Trận Chiến Sáu Ngày.
         Sau chuyến đe doạ trong bán đảo Sinai, Ai Cập phát triển thêm bốn phi  trường quân sự ở El Arish, Bir Gafgafa, Jabel Libni và Bir Thamada. Họ  xây thêm phi đạo mới, nối dài những phi đạo cũ để đáp ứng nhu cầu kỷ  nguyên phản lực. Các phi công Ai Cập bay biểu diễn trên bầu trời thủ đô  Cairo đầu năm 1961 với phi đoàn phản lực MIG-17 gồm 11 chiếc và ba phi  đội oanh tạc cơ Ilyushin. Hàng trăm phi công, chuyên viên cơ khí được  gửi qua Nga Sô huấn luyện loại phản lực cơ mới, hai động cơ MIG-19.
         Trận không chiến kế tiếp xẩy ra ngày 28 tháng Tư năm 1961. Hai phi cơ  Super Mystère của Do Thái lên ngăn chặn hai chiếc MIG-17 của Ai Cập xâm  nhập không phận vùng Nitzana. Trận này được một toán tuần tiễu Do Thái  và Canada thuộc đội quân Liên Hiệp Quốc mục kích ở dưới đất. Các phi  công Ai Cập đã chuẩn bị không chiến, thả rơi thùng xăng phụ, gia tăng  tốc độ. Một chiếc MIG-17 bẻ cua định bay ra sau đuôi hai chiếc Mystère  bị Tzur Ben Barak một phi công trẻ bắn đạn đại bác rớt. Viên phi công  nhẩy dù ra ngoài, chạy thoát qua biên giới.
         Đến tháng Chín năm 1961, người Syria hủy bỏ những hiệp ước liên minh  với Ai Cập vì phải đối phó với một loạt những cuộc cách mạng do quân đội  chủ trương, cho đến khi đảng Ba’ath lên nắm quyền vào tháng Ba năm  1963. Ai Cập cũng phải lo dẹp những vụ nổi dậy ở Yemen. Biên giới Do  Thái được yên lành trong vòng hai năm kế tiếp.
         Trong năm 1964, Do Thái đã hoàn tất chương trình hệ thống dẫn nước, sắp  xửa bắt đầu bơm nước từ hồ Galilee. Đầu năm đó, khối Ả Rập họp và quyết  định chặn nước từ sông Jordan đem nước vào Do Thái. Do Thái tuyên bố  việc làm đó sẽ gây nên chiến tranh. Đến tháng Mười Một, mấy tiền đồn Do  Thái báo cáo trông thấy nhiều xe khai quang vận tải trong vùng Banias,  một trong những nguồn cung cấp nước. Người Jordan dự định đào kinh dẫn  nước đến sông Yarmukh để làm phì nhiêu vùng thung lũng sông Jordan.
         Bộ tổng tham mưu quân lực Do Thái ra lệnh cho tướng Meir Zorea tư lệnh  bộ tư lệnh Phương Bắc (Northern Command) bảo vệ nguồn cung cấp nước từ  sông Dan. Trận chiến tranh vì nước bắt đầu. Vào buổi chiều ngày 13 tháng  Mười Một quân Syria tấn công bắn vào một xe bọc sắt Do Thái đang đi  tuần dọc theo sông Dan. Chiến xa Do Thái trả đũa bắn đại bác vào các vị  trí quân Syria. Syria mở rộng chiến trường, pháo kích vào làng chiến đấu  ở Dan và Shaar Yashuv.
         Cách ra bãi chiến trường, David Ivri phi đoàn trưởng mới của phi đoàn  phản lực Mirage đóng trong phi trường Ramat David cùng với các chiến hữu  trong phi đoàn được sống an nhàn của một chiều thứ Bẩy. Quân đội Syria  tiếp tục làm dữ, pháo kích các làng Do Thái trong vùng Galilee, thung  lũng Hula và đưa quân vào vùng cao nguyên Golan. Tướng Yitzhak Rabin vị  tổng tham mưu trưởng mới yêu cầu thủ tướng Eshkol tấn công bằng không  quân và được sự chấp thuận.
         Tướng Ezer Weizman đang ở nhà nhận được lệnh từ vị tổng tham mưu  trưởng, tiếp theo ông ta ra lệnh cho David Ivry trong phi trường Ramat  David. Ivry tổ chức trận tấn công bằng không quân gồm có các phi đội  Mirage, Mystère và Vautour. Đó là trận đánh đầu tiên của không lực Do  Thái tấn công những mục tiêu trên mặt đất kể từ sau chiến dịch Sinai.  Bốn mươi phút sau khi nhận lệnh từ vị tư lệnh không quân Ezer Weizman,  16 phản lực cơ Do Thái cất cánh đem theo bom Napalm, đạn đại bác và hỏa  tiễn.
         Mười lăm phút sau, các phi công Do Thái đã bay trên đầu các vị trí  phòng thủ quân đội Syria ở Tel Azaziat, Tel Hamra, và Nuheila. Sau trận  tấn công phủ đầu, quân đội Syria phải rút lui. Thỉ tướng Eshkol và Rabin  không muốn mở rộng chiến tranh, ra lệnh không được xử dụng phi cơ và  pháo binh. Quân đội Do Thái cho xe tăng bắn hạ tất cả những xe làm  đường, ủi đất của Syria bén mảng đến khu vực sông Dan. Đánh trên trận  điạ chiến không lại Do Thái, Syria thường cho quân du kích xâm nhập bắn  quấy phá.
         Những trận tấn công du kích lẻ tẻ kéo dài đến mùa hè 1966, Do Thái  quyết định làm cho địch bỏ ý đồ tấn công và kế hoạch phá hoại hệ thống  dẫn nước của Do Thái. Sáng ngày 14 tháng Bẩy, các phi tuần Vautour và  Mystère được phi tuần Mirage bảo vệ phát xuất từ phi trường Ramat David  oanh kích nơi chứa xe đào đất, ủi rừng của Syria ở Ein A Sfira nơi hướng  đông biển Galilee.
         Một trong bốn chiếc Mirage do Yoram Agmon lái. Đài kiểm soát không lưu  ra lệnh cho Yoram “Bay về hướng tây, xả hết tốc lực”, chàng làm theo  lệnh. Đài kiểm soát vẫn tiếp tục theo dõi các phi cơ địch “Quay về hướng  đông, phi cơ địch ở phiá dưới, bên trái của bạn”. Yoram làm theo lệnh,  chàng trông thấy phi cơ địch và báo cáo lên cấp chỉ huy “Tôi đã trông  thấy, đang đuổi theo nó”. 
         Yoram bấm nút bỏ rơi bình xăng phụ lao xuống theo chiếc phi cơ địch.  Trời nhiều mây, chiếc máy bay của địch biến mất. Yoram đang lẩm bẩm tức  tối bỗng hai chiếc MIG-21 lại hiện ra. Tim chàng phi công nhói lại,  MIG-21 là loại mới tối tân nhất của Nga Sô. Hai viên phi công Syria cũng  sững sờ không dè đụng phi cơ Do Thái. Một chiếc MIG bỏ đội hình bay đi,  Yoram bay tới sau đuôi chiếc còn lại. Viên phi công Syria cũng biết “có  chuyện”, bỏ bình xăng phụ. Còn cách khoảng 500 thước, Yoram khai hỏa  khẩu đại bác 20 ly, bắn hụt. Viên phi công MIG bẻ hướng khác, Yoram bay  theo, còn 250 thước chàng khai hỏa lần nữa bắn đứt cánh chiếc MIG-21.  Viên phi công nhẩy dù ra, chiếc MIG-21 lộn vòng rớt xuống đất. Đó là lần  đầu tiên phi cơ Mirage của Pháp bắn rớt MIG-21 của Nga Sô. Trên đường  bay về căn cứ không quân Ramat David, Yoram ca hát thay vì lẩm bẩm như  lần trước. Các bạn được tin đã đợi sẵn uống ly rượu mừng. Đêm đó người  Pháp còn gửi một điện văn chúc mừng.
         Đến tháng Tư 1966, Ezer Weizman đã làm tư lệnh không lực Do Thái gần  tám năm, ông ta xin nhường chỗ cho Moti Hod để lên làm trưởng phòng hành  quân cho tướng Yitzak Rabin. Trong lễ bàn giao chức vụ, Ezer tuyên bố  “Moti Hod sẽ dẫn dắt các bạn đi tới chiến thắng”. 
         Đại úy Radfa thuộc không lực Iraq, 30 tuổi theo đạo Tin Lành bị cấp chỉ  huy để ý, theo dõi ngầm. Sau 5 năm làm nhiệm vụ oanh kích các ổ kháng  cự của người Kurd, ông ta bắt đầu chán ngấy chế độ độc tài của Saddam  Housein, tìm cách “hồi chánh” qua Do Thái. Đại úy Radfa được tình báo Do  Thái xắp đặt chuyến “đào ngũ” vào giữa tháng Tám. 
         Hôm đó, Moti Hod ngồi trong trung tâm hành quân theo dõi một chấm sáng  nghi ngờ và chờ đợi phi công Mirage lên ngăn chặn báo cáo “Một chiếc  MIG-21 của Iraq không võ trang”. Mọi người đều biết đó là dấu hiệu  “không thù địch” của viên phi công Iraq lái chiếc MIG-21. Trung tâm hành  quân ra lệnh cho viên phi công Do Thái đang bay “hộ tống” chiếc MIG-21  “Roger, ra lệnh cho nó đáp xuống căn cứ”.
         Trong căn cứ không quân Hatzor, chỉ mỗi mình Danny Shapira được Moti  cho biết về chuyện người phi công Iraq. Mọi chuyện phải được giữ bí mật  cho đến khi viên phi công “hồi chánh” cùng gia đình đến Do Thái an lành  (tình báo Do Thái đã đưa gia đình vợ con đại úy Radfa đi trước). Không  lực Do Thái đã dành sẵn một trực thăng ở Hatzor để đưa Radfa đi thủ đô  Tel Aviv. Muneir Radfa còn đem theo tài liệu kỹ thuật của chiếc MIG-21  trao cho Shapira và sẽ dậy cho phi công Do Thái lái chiếc phản lực tối  tân nhất của Nga Sô.
         Đầu tháng Tư năm 1967, chiến tranh xẩy ra nơi phiá nam vùng phi quân  sự, bên bờ biển Galilee. Ngày 7 tháng Tư, quân đội Syria gia tăng mức độ  tấn công, từ trên những vách núi trên phần đất Syria bắn đại liên, đại  liên phòng không vào những xe ủi đất làm đường của Do Thái làm hư hại  hai xe ủi đất và một sĩ quan thiệt mạng. Quân đội Syria xử dụng đại bác  trên chiến xa, pháo binh trên cao nguyên Golan pháo kích qua đất Do  Thái. Không lực Do Thái được lệnh trả đũa. Các phi tuần Mirage cất cánh  từ phi trường Tel Nof Ramat David tấn công 18 vị trí pháo binh, súng cối  của địch.
         Khoảng hai giờ chiều, Yiftah Spector và Benny Romah đang bay trên bầu  trời Kuneitra gặp bốn chiếc MIG-21 lên không chiến, kết quả hai chiếc  MIG-21 bị bắn rơi ở Damacus. Mỗi phi công Do Thái “làm thịt” một chiếc  MIG-21. Đến bốn giờ chiều, Ezra “Baban” Dotan bắn rớt thêm một MIG-21  khác trên không phận làng chiến đấu Shamir. Trận không chiến lớn nhất  bao gồm nhiều phi cơ. Phi đội bốn chiếc Mirage dưới quyền Ran Ronen gặp  bốn chiếc MIG-21 của Syria. Kết qủa Ran, người sĩ quan phi đội trưởng  bắn rớt một chiếc, hai chiếc khác do Avner Slapak và Avi Lanir bắn hạ.    



No comments:
Post a Comment