Cuộc Đời Tôi
PHẦN IIA. GIAI ĐOẠN ĐỘC LẬP (1948 – 1952)
6. NGUY HIỂM Ở JORDAN
Đúng 4:30 chiều ngày 14 tháng Năm 1948, David Ben Gurion bắt đầu buổi họp của Hội Đồng Quốc Gia Do Thái ở Palestine. Những buổi họp dành cho giới lãnh đạo Do Thái thường tổ chức ở Jerusalem, nhưng Jerusalem đang bị người Ả Rập bao vây và gần hết giới chức Do Thái cư ngụ ở Tel Aviv nên lần này họ họp trong phòng triển lãm lớn của viện bảo tàng.
Ben Gurion đứng dậy, ghi dấu trong lịch sử bằng lời mở đầu của ông ta. Mười chín thế kỷ đã trôi qua, sau khi người La Mã tiêu hủy thành phố Jerusalem và quốc gia Do Thái. Ông ta tuyên bố sự hồi sinh của một nước Do Thái tự do trên mảnh đất xa xưa. Lời tuyên bố có hiệu lực vào đúng nửa đêm khi người Anh chấm dứt thời gian bảo hộ vùng Palestine. Trong bầu không khí xúc động, Ben Gurion tiếp theo tuyên bố nền Độc Lập của Do Thái.
Vài tiếng đồng hồ trôi qua, quốc gia mới Do Thái bị tấn công. Từ hướng bắc, đông và hướng nam, quân đội các quốc gia Ả Rập: Li Băng, Syria, Iraq, Transjordan (sau đó là Jordan) và Ai Cập đang tiến vào xâm lăng Do Thái. Saudi Arabia cũng gửi quân sang tham chiến đặt dưới quyền điều động của Ai Cập.
Chúng tôi phải đương đầu với những đội quân chính quy, trang bị đầy đủ cùng với vũ khí nặng. Địch quân cũng không gặp trở ngại mua thêm vũ khí, đồ trang bị cho quân đội của họ. Người Do Thái không đủ vũ khí chống cự trong những ngày đầu tiên của Trận Chiến Độc Lập (1948). Trong suốt thời gian người Anh bảo hộ, đạo quân bí mật Haganah chỉ dấu được những vũ khí cá nhân, vài xe bọc sắt nội hoá (homemade) và vài máy bay nhỏ để dùng vào việc huấn luyện.
Quân đội Syria tiến qua biên giới sau nửa đêm. Trong hai ngày sau, họ thả bom, pháo kích vào các làng chiến đấu Do Thái trong vùng thung lũng sông Jordan, bộ binh của họ sẵn sàng tấn công tràn ngập các làng Do Thái. Qua ngày thứ ba, 18 tháng Năm, tôi được lệnh đưa đơn vị Cảm Tử quân lên phiá bắc, nắm quyền chỉ huy vùng thung lũng sông Jordan. Tôi đặt bộ chỉ huy trong làng Kvutzat Kinneret hướng tây nam biển Galilee, gần làng Deganiah.
Mặc dầu lớn lên ở Nahalal, nhưng cha tôi lập nghiệp và xây ngôi nhà đầu tiên cho gia đình trong làng Deganiah. Đó cũng là sợi dây gắn bó tôi với Deganiah, những kỷ niệm, những hình ảnh không thể nào quên. Hàng cây kéo dài từ nhà ăn tập thể trong làng ra đến bờ sông Jordan, sân chơi rộng lớn. “Con người thép” Miriam Baratz một trong những người đầu tiên đến Gedaniah vẫn còn đó, ông ta biết tôi khi còn là đứa trẻ. Con đường đất bụi đi Zemach, những ngọn đồi xung quanh. Tất cả vẫn còn đó, không đổi thay theo thời gian.
Lực lượng Do Thái đưa lên phòng thủ vùng thung lũng Jordan yếu ớt. Tiểu đoàn Barak trong lữ đoàn Golani chỉ có hai đại đội nằm giữ phòng tuyến. Khi tôi đến bộ chỉ huy ở Kinneret, được báo cáo quân đội Syria đã tấn công từ sáng sớm đại đội bảo vệ làng Zemach nơi phiá đông Deganiah. Đại đội này có nhiều quân nhân tuyển mộ từ các làng trong vùng, đã phải rút lui bỏ lại những người chết và bị thương. Phòng tuyến này xụp đổ kéo theo hai làng chiến đấu gần đó Sha’ar Hagolan và Massada (khác với Masada nằm phiá nam). Dân chúng trong hai làng này di tản theo. Quân đội Syria đang chuẩn bị tấn công Deganiah, và ngôi làng chị em Deganiah B (Cha tướng Dayan đi khai phá ngôi làng này).
May mắn thay, trên đường đến Kinneret, tôi gặp người bạn cũ Uri Bar On dẫn theo một số quân tình nguyện đi lên vùng thung lũng sông Jordan. Thêm một đại đội nữa dưới quyền Gadna, bạn cũ từ thời trung học đến Deganiah qua ngã Tiberias. Tôi đem theo xe ba khẩu súng chống xe tăng Bazooka.
Vị chỉ huy lữ đoàn Golani, Moshe Montag đón tiếp tôi rất lịch sự nhưng không tin tưởng mấy. Tôi được bộ tổng tham mưu gửi ra chiến trường để tổ chức hành quân đặc biệt đằng sau phòng tuyến địch. Sau khi đi quan sát tuyến phòng thủ quân ta nơi tiền tuyến, khu vực làng Deganiah, tình thế nghiêm trọng và tôi biết những việc cần phải làm.
Quân đội Syria đặt bộ chỉ huy trong ngôi làng vừa chiếm được Zemach. Địch có một lữ đoàn bộ binh, được tăng cường chiến xa, xe bọc sắt và pháo binh, ngoài ra được không quân yểm trợ thêm. Chúng tôi chỉ có Molotov Cocktails (chai xăng) thay cho bom, vài khẩu Bazooka và vũ khí cá nhân, tinh thần chiến đấu, lòng yêu nước. “Quân” tình nguyện Do Thái bắt đầu đi lên phòng tuyến mà không ai bắt buộc họ. Họ chỉ là những người dân quê hiền lành với lòng yêu quê hương, đi từng người lẻ tẻ hay từng nhóm nhỏ. Họ đến từ khắp nơi trong vùng Palestine, từ thung lũng Jezreel, từ ngôi làng cổ Tiberias, từ nơi xa xôi làng Yavniel. Họ đến để cùng chiến đấu, cùng chết với dân làng Deganiah. Montag, vị lữ đoàn trưởng Golani cho tôi biết, bốn khẩu sơn pháo 65 ly đang trên đường đến tăng viện.
Trong ngày thứ ba, làng Zemach mất về tay địch quân, hai làng khác đã di tản, bỏ trống. Trẻ con và đàn bà không phải chiến đấu được di tản. Vào buổi tối, đơn vị xung kích Palmach (quân chính quy của Haganah) vẫn hy vọng cứu vãn tình thế. Một đại đội thuộc lữ đoàn Yiftach đến tăng cường, đi tấn công để lấy lại trạm cảnh sát kiên cố ở Zemach nhưng không thành công phải lui về. Chúng tôi phải lo vấn đề phòng thủ, thiết lập phòng tuyến, đào giao thông hào suốt ngày 19 tháng Năm.
Người được trao trách nhiệm tổ chức phòng thủ làng Deganiah là Giora, đến từ làng chiến đấu Afikim gần đó. Tôi phải tìm người khác lo cho làng Deganiah B, đó là người bạn ở Nahalal cùng phục vụ với tôi trong Haganah. Tôi để ý một khoảng hở trong tuyến phòng thủ phiá bắc, không có đơn vị nào nằm trong khu vực Bet Yerach nơi phiá bắc Deganiah. Đó là một quả đồi nhỏ để khảo cổ, không có làng chiến đấu, nhưng vị trí chiến lược kiểm soát con đường từ Zemach đi Deganiah và chiếc cầu qua sông Jordan.
Tôi đưa nhóm người tình nguyện từ làng Yavniel lên Bet Yerach đào tuyến phòng thủ trên sườn đồi phiá tây. Vị trí chiến lược này sẽ nằm bên hông đường tiến quân của Syria từ Zemach đi Deganiah. Tôi tiên đoán, quân Syria sẽ tấn công một phần phiá bắc thung lũng sông Jordan, chiếm hai làng Deganiah, và khu vực giữa sông Jordan và biển Galilee. Từ đó địch có thể tiến công lên phiá bắc đến Tiberias, hoặc phát triển về hướng tây đến làng Poriah trên những đỉnh đồi Galilee. Tôi biết vài người trong tiểu đoàn Barak, nhưng trong số người tình nguyện đến chiến đấu, tôi có nhiều người bạn đến từ Nahalal và Yavniel.
Từ sáng sớm hôm sau, quân đội Syria tấn công, mở màn bằng đại bác và súng cối pháo kích lúc 4:15 phút. Sau nửa tiếng đồng hồ, chiến xa cùng bộ binh Syria tiến lên tấn công trong chín tiếng đồng hồ. Địch tấn công hai làng chiến đấu Deganiah và Deganiah B dữ dội. Máy bay Syria lên thả bom nhưng không chính xác và không gây thiệt hại.
Quân Syria tấn công đúng trong sách vở, chiến xa cùng với bộ binh đi hai bên tiến lên. Khi họ tiến gần đến mục tiêu vào tầm tác xạ của quân phòng vệ, bộ binh tìm chỗ tránh đạn sau những bụi cây, chiến xa vẫn tiếp tục tiên lên. Chiến xa Syria đến sát hàng rào phòng thủ hai làng Deganiah. Trong làng Deganiah, một chiến xa băng qua được hàng rào vào bên trong sân làng rồi bị súng Bazooka, bom xăng Molotov Cocktail tiêu diệt. Mấy chiếc khác bị quân tình nguyện Yavniel trên đồi Bet Yerach bắn cháy, mấy chiếc khác bị dân làng bắn hạ sát phòng tuyến.
Từ Poriah, một cao điểm trong vùng Galilee, tôi được cho biết các khẩu sơn pháo 65 ly đã đến và sẵn sàng yểm trợ cho đến chiều. Máy truyền tin không làm việc nên tôi phải cho viên sĩ quan phụ tá đi đến Deganiah B để xem tình hình ra sao, và trao cho ông bạn Uri một mảnh giấy viết tay, nếu anh ta cần pháo binh yểm trợ, sễ dành ưu tiên cho anh ta. Cả hai Uri và viên phụ tá của tôi báo cáo tình hình ở Deganiah đang nguy khốn, tôi vội vàng yêu cầu Poriah khai hỏa mấy khẩu 65 ly cho làng Deganiah B ngay tức khắc.
Trận tấn công bằng Bộ Binh, Thiết Giáp của Syria bị bẻ gẫy và họ phải rút lui. Chiến công của dân hai làng Deganiah và “quân tình nguyện” Yavniel. Pháo binh của chúng tôi tiếp tục tác xạ vào đồn cảnh sát và xung quanh làng Zemach. Không ngờ chúng tôi có pháo binh, các chiến xa Syria được lệnh rút đi trước, quân bộ binh nghe tiếng đạn pháo xé gió, không cần đợi lệnh, bỏ vị trí chiến đấu chạy về phiá bên kia biên giới.
Đến buổi tối, quân đội Syria xem chừng đã rút ra khỏi làng Zemach, lên những ngọn đồi nơi hướng đông. Dùng ống nhòm quan sát làng Zemach, tôi không thấy có động tĩnh bèn quyết định đi đến đó để xem xét. Yitzhak Broshi chỉ huy tiểu đoàn Barak, cùng với mấy người bạn từ Nahalal đi theo, tiểu đội tring sát sẽ bảo vệ chúng tôi. Trăng chưa tròn nhưng cũng đủ cho chúng tôi quan sát. Địch đã rút ra khỏi Zemach, những xác chết dân làng vẫn còn nằm dưới giao thông hào, hai bên con đường.
Nhiều dấu hiệu chứng tỏ quân đội Syria rút lui, bỏ chạy vô trật tự, để lại trên trận điạ nhiều vũ khí, xe cộ nằm lại trên đường. Chúng tôi lấy được một xe trang bị máy truyền tin đem về bộ chỉ huy ở Kinneret.
7. TIỂUĐOÀN 89 BIỆT ĐỘNG QUÂN
Sau khi đánh tan quân đội Syria trong vùng thung lũng sông Jordan, tôi trở về bộ chỉ huy trung ương Haganah, định thành lập một tiểu đoàn “Cơ Động Xung Kích” mà Yitzhak Sadeh đã cho phép trước khi tôi đi Deganiah. Đơn vị này mang số 89, thực ra 89 là tên đặt cho lữ đoàn thiết giáp của Sadeh. Lữ đoàn này chưa từng đánh trận nào và tiểu đoàn 89 do tôi chỉ huy luôn luôn hành quân biệt lập.
Tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ mới này, đúng như tôi mong muốn. Yitzhak cắt nghiã, tiểu đoàn này được xử dụng như một đơn vị Biệt Động Quân, không như những đơn vị xung kích của người Anh trong trận Thế Chiến Thứ Hai. Tiểu đoàn của chúng tôi sẽ nhỏ hơn về nhân sự cũng như về vấn đề yểm trợ tiếp vận. Mới đầu, tôi đượïc cho biết tiểu đoàn sẽ hoàn toàn xử dụng xe Jeep để đi hành quân, trang bị nhẹ, không có pháo binh hoặc thiết giáp yểm trợ. Nhiệm vụ dành cho đơn vị này là xâm nhập sâu vào hậu phương và hoạt động trong lòng địch. Sau đó, bộ chỉ huy quyết định tăng cường thêm cho tiểu đoàn một đại đội yểm trợ và xử dụng xe bán xích sắt làm phương tiện di chuyển.
Theo tôi, sơ đồ cơ cấu tổ chức và vũ khí nói lên phần nào khả năng tác chiến của đơn vị. Nhiệm vụ này tôi trao cho viên sĩ quan phụ tá Yohanan Peltz, một người có kinh nghiệm chiến đấu, đã từng phục vụ trong lữ đoàn Do Thái thuộc quân đội Anh trong trận thế chiến. Ông ta rất có quy củ trong vấn đề tổ chức, quen thuộc vấn đề giấy tờ hành chánh, tiếp vận. Tôi tập trung nỗ lực trong vấn đề tuyển mộ, lưạ chọn quân tình nguyện. Trước đây, chúng tôi đã có bốn nhóm xuất sắc, trở nên trọng tâm cho bốn đại đội. Những thanh niên tình nguyện từ các làng chiến đấu gom lại thành một đại đội, đại đội thứ hai lấy quân ở Tel Aviv, đại đội thứ ba gồm hội viên của nhóm quá khích bí mật Lehi, tiếng Hebrew đồng nghiã với Stern Gang. Đại đội thứ tư gồm quân tình nguyện từ nước ngoài về, đa số là người gốc Do Thái ở Nam Phi (South Africa). Các đại đội tăng quân số nhanh chóng, do bạn bè kêu gọi gia nhập. Người từ làng chiến đấu Nahalal, mời thêm bạn bè từ các làng lân cận khác, từ Yavniel trong vùng Galilee, từ Gvat và các làng khác trong thung lũng Jezreel. Đại đội ở Tel Aviv dưới quyền chỉ huy của Akiva Sa’ar tuyển mộ quân trong thủ đô Tel Aviv. “Trùm” nhóm “Đặc Công” Lehi là Dov Granek, biệt danh Tóc Vàng kêu gọi các “đồng nghiệp” trong vùng Palestine gia nhập. Nhiều người đang phục vụ trong các đơn vị Do Thái khác, họ vẫn đến gia nhập “Tiểu Đoàn 89 Biệt Động Quân” dù có được lệnh thuyên chuyển hay không.
Một trong số người tình nguyện từ ngoại quốc về có một người “khác thường”, một “dân chơi” Tây (Pháp) chính cống tên là Teddy Eitan. Ông ta đã phục vụ trong một đơn vị thiết giáp Pháp trong trận thế chiến, gia nhập đơn vị chúng tôi để làm huấn luyện viên.
Hậu cứ của tiểu đoàn đóng trong doanh trại cũ của quân đội Anh ở Tel Litvinsky (bây giờ là Tel Hashomer) nằm giữa Tel Aviv và hai làng Ả Rập Yehudiya và Ono, lúc đó quân đội Jordan đang đóng trong làng. Tiểu đoàn tân lập được cung cấp lều và nhà tiền chế để làm văn phòng và phòng ăn, nhưng hầu hết được dùng như nhà kho chứa dụng cụ. Chúng tôi được phát quần áo khaki, chưa có phù hiệu, cấp bậc.
Ngày 20 tháng Sáu 1948, tiểu đoàn vừa hoàn tất việc huấn luyện, tôi được gọi về bộ chỉ huy lữ đoàn thiết giáp của Yitzhak Sadeh. Sadeh cho tôi biết một chiếc tầu chở vũ khí tên là Altalena do nhóm quá khích Irgun tổ chức vừa “ủi bãi”. Trong thời gian nguưòi Anh cai trị vùng Palestine, cơ quan Do Thái là đại diện chính thức cho người dân trong vùng Palestine. Nhóm quá kích Irgun không chiụ đặt dưới quyền “chỉ bảo” của cơ quan. Đơn vị phòng vệ bí mật của cơ quan là Haganah, tuy nhiên hai nhóm Irgun và Lehi vẫn chủ trương đường lối “quyết liệt” đối với người Ả Rập và người Anh. Khi quốc gia Do Thái được Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận, Irgun vẫn từ chối tuân theo lệnh của chính quyền Do Thái.
Liên Hiệp Quốc đưa ra lệnh ngưng bắn lần đầu tiên vào ngày 11 tháng Sáu, cả Do Thái lẫn Ả Rập đều đồng ý không đem thêm vũ khí mới vào đất của mình, tuy nhiên cả hai đều vi phạm luật ngưng bắn. Tuy nhiên, nhóm Irgun vẫn tỉnh bơ, ngang nhiên xử dụng chiếc tầu Altalena đem vũ khí về. Hành động này coi cả thường khối Ả Rập lẫn chính quyền Do Thái.
Trong khi tôi đang được Yitzhak Sadeh thuyết trình, chiếc tầu Altalena thả neo ngoài khơi Kfar Vitkin, khoảng 23 dặm về phiá bắc Tel Aviv. Chiếc tầu này đang rỡ “hàng” để trang bị cho nhóm quá khích Irgun. Lữ đoàn Alexandroni thuộc bộ chỉ huy trung ương được lệnh tịch thâu số vũ khí này, tuy nhiên quân nhân lữ đoàn không muốn nổ súng vào nhóm Irgun vì cùng là người Do Thái. Do đó tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân được trao cho trách nhiệm. Tôi không được rõ vấn đề phức tạp nội bộ giữa chính quyền và nhóm Irgun, tuy nhiên là một quân nhân tôi phải thi hành lệnh ở trên đưa xuống. Đây là vấn đề “nôi bộ” nên tôi chỉ xử dụng đại đội mà quân tình nguyện từ các các làng chiến đấu.
Đại đội này dưới quyền chỉ huy của Uri Bar On được lệnh di chuyển đến Kfar Vitkin nằm đợi tôi đến khi trời bắt đầu xập tối. Chúng tôi yêu cầu “người” Irgun (họ vẫn là dân sự, đặc công, khủng bố) bỏ vũ khí xuống và được đáp lại bằng từng tràng tiểu liên làm tám quân nhân trong đại đội trúng đạn, trong đó hai người bị thương nặng. Chúng tôi đặt súng cối và bắt đầu pháo kích lên bãi biển. Nhóm quá khích biết chúng tôi “làm thiệt” nên ngưng tiếng súng và cấp chỉ huy của họ lên gặp Uri Bar On để thương thuyết. Trận “nội chiến” chấm dứt. Chiếc tầu Altalena nhổ neo đi Tel Aviv, để lại một số vũ khí trên bờ biển (có lẽ nhóm Irgun đồng ý chia bớt vũ khí cho Haganah).
Cựu Thủ Tướng Menachem Begin cũng đã từng là lãnh tụ nhóm quá khích Irgun. Ông ta là người rất quan trọng trong lịch sử Do Thái. Trong trận chiến thắng thần tốc Sáu Ngày vào tháng Sáu năm 1967, chính Begin đã hối thúc Thũ Tướng Eskhol, Tổng Trưởng Quốc Phòng Dayan, nhân cơ hội đánh chiếm Thành Phố Cổ (Old City) bên trong Jerusalem. Đất nước Do Thái thiếu Thành Phố Cổ cũng như một thân xác thiếu linh hồn. Begin gọi điện thoại thúc dục nhiều lần hai lãnh tụ Do Thái, kể cả vào lúc nửa đêm và đe dọa “Nếu quý vị không làm ngay, để cơ hội này tan biến đi, quý vị sẽ là người mang trọng tội với lịch sử, với dân tộc”. Sau trận chiến thắng, Do Thái trả lại nhiều phần đất cho khối Ả Rập, nhưng nhất định không trả lại Thành Phố Cổ, chốn linh thiêng của dân tộc. Người Do Thái ngày nay phải nhớ ơn ông ta.
Sau vụ này tôi được chỉ thị qua Hoa Kỳ dự đám tang Đại Tá David Marcus, người Hoa Kỳ gốc Do Thái đã qua giúp Do Thái trong trận chiến Độc Lập. Khi quay trở về hậu cứ tiểu đoàn ở Tel Hashomer, vừa tới cổng đúng lúc đoàn quân xa chở quân đưa tiểu đoàn đi Kfar Syrkin, cách Tel Aviv khoảng 10 dặm về hướng đông bắc. Tôi vội vã thay quần áo đi theo đoàn quân. Tiểu đoàn sẽ tham dự hành quân Danny, đuổi quân Ả Rập ra khỏi khu vực trung tâm Do Thái.
Nhiệm vụ dành cho tiểu đoàn 89 là đánh chiếm các vị trí địch bao quanh hai ngôi làng Ả Rập Kula và Tira. Làng Tira nơi phiá nam chỉ cách phi trường quốc tế Lod ba dặm về hướng đông bắc. Phi trường này nằm trong tầm súng đại bác của địch, ngay cả làng Lod gần đó cũng đã bị người Ả Rập chiếm cứ. Tôi ra lệnh sửa soạn chokhẩu súng cối 81 ly, sẵn sàng yểm trợ cho một trận tấn công chớp nhoáng.
Trời vừa sáng, tiểu đoàn di chuyển về hướng làng Kula. Địch bắn ra dữ dội, xe bán xích sắt phải dừng lại cho khẩu súng 81 bắn vài quả đáp lễ. Tôi ra lệnh cho Akiva Sa’ar tiếp tục cho đại đội tiến lên tấn công làng Kula, còn tôi sẽ đích thân dẫn một đại đội khác tấn công làng Tira. Chúng tôi tiến quân thật nhanh để áp đảo tinh thần địch, kết quả chiếm được cả hai mục tiêu trong chớp nhoáng, chỉ có năm binh sĩ bị thương.
Mục tiêu kế tiếp giao phó cho tiểu đoàn là khu vực Deir Tarif, cứ điểm kiên cố của quân Ả Rập nằm cách Tira khoảng 2 dặm, cũng gần phi trường Lod. Trận tấn công này phải phối hợp với bộ chỉ huy lữ đoàn, tôi để viên tiểu đoàn phó lên họp với họ còn mình lái xe đi Tel Aviv gặp Thủ Tướng Ben Gurion. Trên chuyến bay về lại Do Thái, một công điện gửi cho tôi ra lệnh đến trình diện ông ta nhưng tôi “nóng mũi” đi theo tiểu đoàn hành quân.
Tôi trình diện vị thủ tướng, ông ta có nhiều nỗi lo lắng. Đất nước đang bị người Ả Rập tấn công, gặp thêm chuyện “khó dễ” với chính người Do Thái. Hai nhóm quá kích Irgun, Lehi vẫn không chịu vào khuôn phép “thuần phục” luật nhà nước. Vị thủ tướng gọi tôi vào để trao cho trách nhiệm thay thế Đại Tá David Shaltiel phòng thủ kinh thành Jerusalem. Tôi từ chối vì muốn chiến đấu trong tiểu đoàn Biệt Động Quân mới thành lập. Vị thủ tướng rất khéo léo trong việc dùng người, chỉ hỏi thăm về trận đánh ban sáng, sau đó đồng ý chờ cho đến khi hành quân Danny chấm dứt.
Trong khi tôi ngồi trong văn phòng vị nguyên thủ quốc gia, đơn vị của tôi vẫn tiếp tục tiến quân, khi tôi quay về, tiểu đoàn đang tiến gần đến Deir Tarif lúc trời đang tối. Sáng sớm hôm sau, tôi được tiểu đoàn phó Peltz báo cáo tiểu đoàn phân tán, rải quân từ Tira đến Deir Tarif. Đơn vị đang đụng độ với quân Lê Dương Ả Rập ở Deir Tarif và hai sĩ quan đại đội trưởng Uri Bar On, Arik Nehemkin bị thương được di tản. Tiểu đoàn 82 Chiến Xa đang hành quân phối hợp được lệnh ra khỏi chiến trường và đại đội xe Jeep của tiểu đoàn phải lên thay.
Nổi điên, tôi ra lệnh gom tiểu đoàn lại, không hiểu tại sao tiểu đoàn 82 Chiến Xa tự động rút. Đơn vị của tôi phải được tập trung để tấn công thay vì phân tán, nằm giữ các làng Ả Rập đã chiếm xong.
Tại Deir Tarif, tôi gặp Akiva Sa’ar cùng với đại đội xử dụng xe bán xích sắt. Đại đội này đến từ đêm qua yểm trợ cho đại đội của Uri. Bây giờ đang đào hầm phòng thủ sườn hướng tây và hướng bắc của ngọn đồi, trong khi đó quân Lê Dương Ả Rập chiếm sườn phiá đông. Akiva khuyên không nên lên trên đỉnh đồi vì địch vẫn tiếp tục pháo kích, và quân Jordan bắn tiả. Tôi ra lệnh cho tài xế xe Jeep đưa tôi lên, quả nhiên xe của Akiva theo sau.
Từ trên đỉnh ngọn đồi nhìn xuống, tôi trông thấy xe cộ của mình bị hư hại nằm dưới chân đồi, một xe bọc sắt của địch bị lún một bên dưới hào. Không thể tin được, quân Lê Dương bỏ xe bọc sắt, mình chỉ cần dây cáp (cable) kéo lên là “xài” được vả lại lúc này, quốc gia mới thành lập nên rất thiếu vũ khí.
Trong khi đó, dưới chân đồi, tiểu đoàn đã gom lại đầy đủ, đang được tiếp tế xăng nhớt, đạn dược. Tôi trải tấm bản đồ ra, băn khoăn tìm mục tiêu kế tiếp, khoảng hơn ba dặm về hướng tây nam là thành phố Lod quan trọng của người Ả Rập. Mình có thể để một đại đội ở lại cầm chân quân Lê Dương, phần còn lại của tiểu đoàn sẽ tấn công Lod. Tôi đi thanh tra lại đơn vị, tất cả các đại đội đều thiếu hụt quân số, xe cộ, đồ trang bị sau hai ngày tấn công liên tục. Tuy nhiên tinh thần lên rất cao, phối hợp chặt chẽ hơn qua kinh nghiệm hành quân, trận mạc, tất cả đều tin tưởng sẽ chiến thắng.
Tôi gọi các đại đội trưởng về họp, ra lệnh “Hãy dứt điểm mục tiêu này rồi qua Lod”. Sau đó tôi đi ra một trung đội đang bố trí bên kia đường, ra lệnh cho trung đội này tiến về hướng đông, đẩy quân thù lui về sau. Tôi tiếp tục đi lên trên tuyến đầu, đang đi một nhân viên truyền tin chạy lên mời tôi quay trở về trung tâm truyền tin. Vị lữ đoàn trưởng, lữ đoàn Yiftach, Mulla Cohen muốn nói chuyện với tôi. Tôi biết lữ đoàn Yiftach đang tấn công từ hướng khác lên, cùng với tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân như hai cánh tay. Tôi nhận ra giọng nói Mulla bên kia đường giây. Ông ta vào đề ngay, một đơn vị của ông ta đang tiến tới Lod bị hỏa lực đàn áp, hiện đang kẹt cứng trong vườn cam hướng đông nam thành phố và yêu cầu tôi lên trợ lực (Sau này gặp lại, ông ta nói đã yêu cầu chúng tôi thay vì tiểu đoàn 82 Chiến Xa). Tôi trả lời, chúng tôi sẽ đến tiếp cứu sau khi đã “làm xong việc” ở Deir Tarif.
Chúng tôi phải làm gấp, khẩu 81 ly bắt đầu pháo kích lên vị trí địch, đẩy quân Lê Dương lui về làng Bet Naballa của chúng. Đại đội “quá khích” Lehi bắt đầu cho quân di chuyển về hướng thành phố Lod. Còn một điều nữa, tôi muốn tịch thu chiếc xe bọc sắt bị sa lầy của địch để xử dụng, trên pháo tháp có thêm khẩu đại bác 2 pounds. Lấy được chiếc xe này đơn vị tôi sẽ là Vua chiến trường. Tôi leo lên một xe bán xích sắt, gọi một nhân viên cơ khí đi theo. Một người nhẩy lên, cương quyết muốn đi với tôi. Tôi để ý người binh sĩ này, có khuôn mặt rất trẻ, ăn nói rất lịch sự lễ độ, đến từ làng một chiến đấu trong vùng bình nguyên Sharon. Chúng tôi vừa ủi vừa kéo chiếc xe bọc sắt của địch ra khỏi vũng lầy rồi kéo về dưới chân đồi.
Để xử dụng chiếc xe ngay tức thời, nhân viên truyền tin sửa lại máy truyền tin trên xe, nhân viên cơ khí coi lại máy móc. Còn khẩu đại bác 2 pounds, tôi cho một xe Jeep chạy lại một đơn vị pháo binh gần đó đưa một sĩ quan pháo binh đến huấn luyện cấp tốc cho mấy binh sĩ của tôi. Một tiếng đồng hồ sau, tôi được báo cáo chiếc xe bọc sắt đã sẵn sàng đi hành quân, tôi chọn nhân viên cho xe. Tất cả mọi người đều thích thú đặt tên cho nó là “Con Cọp Khủng Khiếp hay Mãnh Hổ – The Terrible Tiger”.
Đại đội dưới quyền “Blondi” Dov Granek được lệnh ở lại cầm chân quân Lê Dương, phần còn lại của tiểu đoàn, tăng cường thêm “Con Cọp Khủng Khiếp” tiến về Lod. Chúng tôi đi ngang qua làng Do Thái Ben Shemen nằm giữa hai làng Ả Rập Bet Naballa và Lod. Dân làng đã đứng đợi ở cổng làng, chạy ra chào đón đoàn quân đi ngang qua.
Tôi đến gặp Mulla vị lữ đoàn trưởng, ông ta cho biết những điểm có quân của lữ đoàn Yiftach. Tôi cho ông ta biết mũi tiến quân của tiểu đoàn và yêu cầu ông ta không cho đơn vị nào vào vùng trách nhiệm của chúng tôi.
Tôi ra lệnh tập họp các trung, đại đội trưởng lại ban lệnh hành quân chi tiết: “Con Cọp” sẽ đi đầu, đại đội xe bán xích sắt thứ nhất di chuyển tiếp theo, rồi đại đội xe bán xích sắt thứ hai theo sau, cuối cùng là đại đội xe Jeep. Tôi sẽ đi với đại đội xe bán xích sắt thứ nhất, trong trường hợp “Con Cọp” hay bất cứ xe bán xích sắt nào bị trúng đạn, bất khiển dụng, các xe đi sau phải tìm cách đi vòng qua rồi tiếp tục tiến lên. Sau khi băng qua được tuyến phòng thủ của địch vào trong thành phố, phải tiếp tục tác xạ hai bên trái phải. Khi đến trung tâm thành phố, tiểu đoàn chia ra, đại đội 1 càn quét hướng bắc, đại đội 2 hướng nam, đại đội xe Jeep bố trí xung quanh công trường, sẵn sàng tiếp ứng cho hai đại đội kia. Sau khi càn quét xong, tiểu đoàn tập trung tại trung tâm thành phố, đợi lệnh.
Khi đoàn xe chúng tôi tiến lên được 100 thước, địch từ một tiền đồn bắt đầu khai hỏa nhưng chỉ trúng vào lớp thép bảo vệ “Con Cọp” và các xe bán xích sắt. Tiến lên một đoạn đường nữa, “Con Cọp” ngừng lại khi người xạ thủ khẩu đại bác trên pháo tháp đã xác định mục tiêu, “thổi” một quả, tiêu hủy vị trí tiền đồn của địch. Đoàn xe tiếp tục tiến lên được vài trăm thước nữa bị khựng lại trước một hào chống chiến xa. Địch từ trong phòng tuyến chính bắn ra dữ dội.
Tôi xuống xe bước lên trước quan sát tình thế. “Con Cọp” đang bận rộn tác xạ vào các công sự phòng thủ của địch. Qua ống nhòm, tôi nhìn rõ bao cát trong lô cốt bị “Con Cọp” bắn tung lên và quân Ả Rập bỏ chạy. Tôi ra lệnh cho trưởng xa “Con Cọp” ngưng tác xạ, đi vòng qua một bãi trống rồi tiếp tục hướng về trung tâm thành phố. Có địch địch gài mìn chống chiến xa, nhưng không còn cách nào khác, vẫn phải tấn công.
May thay, địch không đặt mìn, tuy nhiên đoàn xe tiến chậm hơn vì xe đi sau phải cẩn thận, đi đúng vết xe “Con Cọp” để lại và phải vượt qua những hào dẫn nước nhỏ hẹp. Sau đó, chúng tôi băng ngang qua phòng tuyến địch đã bỏ ngõ vào trong thành phố Lod. Đồn cảnh sát trong phố bị trúng đạn đại bác, quân trú phòng bỏ chạy. Trong thành phố Lod lúc bấy giờ đầy dân tỵ nạn Ả Rập từ các làng lân cận chạy vào thành phố sau khi các làng của họ đã vị quân đội Do Thái đánh chiếm. Từ trong những căn nhà, địch quân khai hỏa đủ loại vũ khí, ném lựu đạn vào đoàn xe. Chúng tôi đến trung tâm thành phố, cường độ tác xạ súng đạn cũng giảm đi, đa số người Ả Rập đang đi lại trên đường phố là thường dân.
Trong lúc hai bên bắn nhau loạn xạ, “Con Cọp” đi mở đường nên đi lạc một mình lên hướng bắc thành phố Lod, phần còn lại tiếp tục tiến quân băng qua thành phố Lod, trên con đường đi Ramla. Chúng tôi đến gần một đồn cảnh sát kiên cố do một đại đội lính Lê Dương Ả Rập trấn đóng. Sự hiện diện của chúng tôi có lẽ bất ngờ, một người đàn ông Ả Rập đang đứng trước cổng nhìn đoàn quân tiến tới từ đằng xa. Khi đến gần chúng tôi nhìn rõ, ông ta mặc quần áo Khaki không đội nón, có lẽ là cấp chỉ huy đồn cảnh sát, nghe tiếng súng nổ từ hướng Lod nên ra ngoài ngóng tin. Chợt nhận xe đoàn xe Do Thái đang lù lù đi trên đường, ông ta phóng vào bên trong sân và biến mất. Đoàn xe bán xích sắt đại đội 1 đi ngang qua an lành, tuy nhiên địch đã lấy lại được bình tĩnh bắn xối xả vào đoàn xe thứ hai và xe Jeep. Khẩu đại liên đặt trên điếm canh, nhả đạn như mưa xuống, thêm một quả lựu đạn ném xuống vào bên trong một xe bán xích sắt gây thương vong cho một số binh sĩ.
Khi đến ngã rẽ ngay trạm xe lửa, tôi ra lệnh cho đoàn xe ngừng lại, xem xét tổn thất. Đại đội xe Jeep có bốn quân nhân tử trận, mấy quân nhân trên một xe bán xích sắt bị thương nặng. Mấy người mất tích, bị thương rơi ra khỏi xe, một chiếc Jeep chở toán trinh sát bị cháy vẫn còn nằm lại nơi đồn cảnh sát. Nhiều xe bị bắn bể bánh và két nước (radiator).
Chúng tôi lo băng bó cho thương binh, thay bánh xe nếu có bánh sơ cua. Trong khi bận rộn với công việc, chiếc xe Jeep đang canh gác báo động, xe bọc sắt của một đơn vị Lê Dương gần đó đang trên đường tới “thăm viếng” chúng tôi. Thêm vào đó đạn súng cối từ trong đồn cảnh sát đang rơi xuống xung quanh. Trước tình thế này tôi ra lệnh cho đoàn xe di chuyển, tránh xa địch quân. Đến con đường nối liền Ramla, Latrun, tôi ra lệnh tái phối trí lại đơn vị để phản công.
Đúng lúc đó, máy truyền tin hoạt động trở lại (lúc đó máy móc chưa được hoàn hảo), bên kia đầu dây là Dov Granek, đại đội ở lại Deir Tarif để cầm chân, khuấy phá địch quân. Dov báo cáo quân Lê Dương tấn công trở lại, lấy được một sườn đồi, vài quân nhân trong đại đội mất tích và cần tiếp viện. Tôi cho Dov biết chưa thể đến tiếp cứu được, đang kẹt ở dưới này, khi nào xong sẽ lên, trong thời gian chờ đợi hãy gọi lữ đoàn Bộ Binh yêu cầu họ đến tăng viện. Dov báo cáo tiếp, anh ta không có đường dây liên lạc trực tiếp với lữ đoàn. Tôi trả lời, trường hợp giữ không nổi cho đại đội rút về làng Tira, mình sẽ tấn công trở lại Deir Tarif lấy lại ngọn đồi vào sáng mai.
Do dự một vài giây, Dov lên tiếng “Hay là tôi gom đại đội tấn công lấy lại sườn đồi?” Thì ra viên đại đội trưởng báo cáo để tham khảo ý kiến chứ không phải đợi lệnh. Để khuyến khích, tôi la lớn trong máy.
- Anh có phải là Biệt Động Quân hay không? Dov cũng trả lời lớn tiếng trên máy.
- Biệt Động Quân! Biệt Động Quân! Chúng tôi sẽ tấn công.
- Đánh từ hướng đông lên.
- Đúng vậy.
Đoàn quân quay trở lại đồn cảnh sát, dùng đại liên bắn xối xả vào bên trong để một toán đi nhặt xác chết và thương binh của chúng tôi, sau đó tiếp tục di chuyển trở lại trên con đường cũ ngang qua Lod, thành phố đã im tiếng súng. Kết quả đơn vị tôi có 9 quân nhân tử trận, 17 người khác bị thương, tất cả xác chết và thương binh đều thâu hồi được.
8. TIẾN QUÂN TỚI SAMẠC NEGEV
Chúng tôi về đến hậu cứ ở Tel Hashomer sáng hôm sau, suốt một đêm di chuyển. Trong hậu cứ đã biết nhiều về việc xử dụng “tối đa” tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân, nào là đánh chiếm các làng Ả Rập Kula, Tira, Tarif và tấn công xuyên qua thành phố Lod. Sau cuộc hành quân, khả năng tham chiến của tiểu đoàn đang ở trong tình trạng thiếu thốn về mặt tiếp vận. Xe cộ bị trúng đạn thiệt hại, nhiều quân nhân, đặc biệt số sĩ quan bị thương.
Chúng tôi được ngủ vài tiếng đồng hồ, khi thức dậy được nhân viên truyền tin đưa cho một công điện từ vị trưởng phòng hành quân Bộ Chỉ Huy Trung Ương, tôi phải trình diện tại văn phòng ông ta ngày hôm sau 13 tháng Bẩy. Trưởng phòng hành quân là Thiếu Tướng Yigael Yadin ra lệnh cho tôi đem tiểu đoàn xuống phiá nam, phối hợp với lữ đoàn Givati tấn công tới sa mạc Negev.
Trong lúc đó quân đội Ai Cập giữ một phòng tuyến kéo dài từ biển về hướng đông trên đường nối liền hai thành phố Majdal, Faluja, cắt nước Do Thái ra làm đôi và sa mạc Negev ở phiá nam. Mục đích cuộc hành quân đánh phá phòng tuyến Ai Cập, chiếm đóng ba căn cứ của địch. Hai căn cứ Hatta và Bet Affa được trao cho lữ đoàn Givati, còn căn cứ Karatiya ở xa hơn và cũng gay go hơn là nhiệm vụ dành cho tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân. Sau khi lấy được căn cứ sẽ bàn giao cho một đại đội thuộc lữ đoàn Givati đi sau chúng tôi lên đóng quân.
Thiếu Tướng Yadin khen ngợi những thành quả tiểu đoàn chúng tôi đã làm được trong những ngày qua. Tôi trình bầy với ông ta về tình trạng của tiểu đoàn sau chuyến hành quân, những xe bán xích sắt của chúng tôi đều trúng đạn cần được xửa chữa. Tổn thất về nhân mạng làm hao hụt quân số, nhất là số sĩ quan. Trong những sĩ quan bị thương có Peltz tiểu đoàn phó, hai đại đội trưởng Akiva và Uri Bar On. Đơn vị sẵn sàng thi hành nhiệm vụ, tuy nhiên nếu phải gánh những nhiệm vụ nặng nề, sợ rằng tiểu đoàn Biệt Động Quân sẽ bị xóa sổ.
Ông ta ngồi nghe xong nói tôi chờ trong văn phòng để ông ta đi gặp Thủ Tướng Ben Gurion xin quyết định. Thiếu Tướng Yadin quay trở lại hỏi tôi một câu, trong tình trạng hiện thời, liệu tiểu đoàn có thể tấn công tới sa mạc Negev không? Tôi trả lời được. Vị tướng nói “Trong trường hợp này… cứ tấn công và sau đó trong thời gian đình chiến lần thứ hai sẽ lập lại một tiểu đoàn mới”
Chúng tôi bàn kế hoạch hành quân, tôi nêu vấn đề tiếp vận và được hứa sẽ có thêm sáu xe bán xích sắt, bốn xe thám thính. Tôi cầm lệnh hành quân trên tay chuẩn ra về, Yadin nói tôi lên gặp Thủ Tướng Ben Gurion vì ông ta có nhắc nhở muốn gặp tôi.
Sau khi gặp vị nguyên thủ quốc gia, tôi trở về căn cứ tổ chức lại tiểu đoàn Biệt Động Quân. Về xe cộ, tiểu đoàn có 12 xe Jeep, 8 xe bán xích sắt, 4 xe thám thính, “Con Cọp Khủng Khiếp” và 2 “Hộp Thiết” là loại xe vận tải có gắn thêm lớp sắt hai bên. Tôi chia tiểu đoàn ra làm 5 “đại đội”, thực sự ra chỉ lớn hơn một trung đội tí xíu. Đại đội xe Jeep có 25 người, chia làm 3 toán, mỗi toán 3 xe gắn đại liên. Hai đại đội “Bộ Binh Cơ Giới”, một đại đội có 35 người, đại đội kia chỉ có 25. Đại đội yểm trợ với 4 xe thám thính và đại đội chỉ huy gồm có toán trinh sát trên 2 xe Jeep, toán quân báo 1 xe Jeep. Toán truyền tin xử dụng 1 xe “Hộp thiết” và toán bảo trì cơ khi đi trên 1 xe “Hộp thiết”. Quân số tham chiến của tiểu đoàn là 130 người. “Con Cọp” vẫn là niềm hãnh diện của tiểu đoàn, chỉ mình nó là có lớp thép thứ thiệt bao bọc thêm khẩu đại bác 2 pounds trên pháo tháp.
Ngày 15 tháng Bẩy, chúng tôi rời căn cứ ở Tel Hashomer di chuyển đến Masmiya khoảng giữa Tel Aviv và sa mạc Negev. Chúng tôi thiết lập căn cứ hành quân tiền phương trong một vườn cam bên cạnh con đường. Tôi đã có dịp băng qua sa mạc Negev nhưng không nhớ rõ điạ hình điạ vật, vì sa mạc là vùng đất chết, không có cây cỏ, không có nước.
Đến buổi tối, tôi nhận được lệnh từ bộ chỉ huy lữ đoàn Givati mà đơn vị tôi tăng phái. Lệnh hành quân tiến chiếm mục tiêu theo thứ tự, tấn công đuổi địch quân ra khỏi khu vực nơi hướng bắc con đường nối liền hai thành phố Majdal, Faluja (Bet Affa và Hatta), sau đó tấn công và chiếm đóng Karatiya.
Trong phòng họp hành quân bộ chỉ huy lữ đoàn Givati, tiểu đoàn tôi được lệnh rõ ràng tấn công Karatiya đêm 17 tháng Bẩy. Tôi muốn tấn công vào buổi sáng, xử dụng các loại xe cộ sẵn có tiến nhanh vào mục tiêu. Lời yêu cầu của tôi bị từ chối, các đơn vị khác trong lữ đoàn đều muốn tấn công ban đêm.
Ngay trong đêm 15, tôi gửi một toán trinh sát đi thám thính tìm đường tiến quân đến Karatiya. Khi toán trinh sát đi đến đầu phi đạo ở Faluja, gần mục tiêu bị lộ, địch bắn tới tấp phải quay về. Một điều may mắn đến với chúng tôi, “Con Cọp” sau trận đánh ở Lod chỉ còn sáu viên đạn đại bác 2 pound. Kho tiếp vận vũ khí của người Do Thái lúc đó chiụ thua, không có loại đạn này. Tình cờ đi thám thính khu vực xung quanh, chúng tôi tìm thấy 20 viên đạn đại bác, địch để lại cho “Con Cọp”
Giờ bắt đầu cho trận tấn công H là 22:00 (10 giờ đêm). Tôi tập họp tiểu đoàn lại ban lệnh lần cuối, nhiệm vụ của tiểu đoàn Biệt Động Quân đánh phi đạo ở Faluja do quân đội Ai Cập phòng ngự. Mọi người sẽ vừa khai hỏa vừa tiếp tục di chuyển băng qua con đường nối hai thành phố Majdal, Faluja cho đến khi tới phiá nam Karatiya. Căn cứ chiến lược Karatiya nằm trên một ngọn đồi, trên bản đồ có đường cho xe đi lên, nếu xe cộ di chuyển không được tiểu đoàn sẽ phải tấn công lên như bộ binh. Tôi nhấn mạnh, chỗ khó khăn nhất vẫn là đánh xuyên qua phòng tuyến Ai Cập. Tất cả mọi xe cộ phải chạy nhanh, tác xạ hai bên mũi tiến quân.
Tuyến xuất phát trong ngôi làng bỏ hoang Juseir, chúng tôi gặp các sĩ quan trong lữ đoàn Givati lần chót trước khi xuất quân. Họ đã đặt tên cho cuộc hành quân này là “Chết cho kẻ xâm lăng” (Death to the Invaders). Phương thức hành quân của họ cũng khác, tiểu đoàn trưởng ở trong căn cứ “điều động” tiểu đoàn từ đó, chứ không đi theo đại đội dẫn đầu của tiểu đoàn như tôi. Cấp chỉ huy phải sống chết với thuộc cấp của mình chứ đâu phải ngồi an toàn trong căn cứ chỉ huy đơn vị bằng “remote control”
Đúng 10 giờ đêm chúng tôi bắt đầu di chuyển ra khỏi tuyến xuất phát, một xe bán xích sắt cán phải mìn bị hư hại, phải bỏ lại, các quân nhân leo lên những xe còn lại. Tôi nhắc nhở phải tiếp tục tiến lên không có lý do nào để ngừng lại. Hai xe Jeep trinh sát dẫn đầu đoàn xe hướng về phi đạo ở Faluja, theo sau là “Con Cọp”, hai đại đội xe bán xích sắt, đại đội xe Jeep và đại đội yểm trợ bao chót. Khi chạm địch, hai xe Jeep sẽ tránh qua hai bên tiếp tục tác xạ, nhường chỗ cho các xe khác tiến lên thanh toán mục tiêu. Xe nào bị trúng đạn sẽ bị bỏ lại, các xe khác vẫn phải tiếp tục tiến lên.
Trăng tròn, nếu trời không có trăng vẫn không giữ bí mật được cho đoàn quân vì tiếng máy xe nghe rất ầm ĩ, nhất là mấy chiếc xe bán xích sắt. Quả nhiên địch đã chờ sẵn, khi đoàn xe đến đầu phi đạo, địch tác xạ bằng đủ loại vũ khí vào đoàn xe, kể cả súng cối và đại liên. Nhờ lớp thép che chở, đoàn xe tiếp tục tiến tới, khi còn cách phòng tuyến địch khoảng 150 thước, tôi ra lệnh khai hỏa. Địch hoảng sợ khi trông thấy “Con Cọp” lù lù tiến tới nên bỏ chạy. Chúng tôi băng qua phi đạo không bị tổn thất nào.
Bây giờ mới đến phòng tuyến chính của địch kéo dài từ cuối phi đạo đến con đường Majdal-Faluja. Quân Ai Cập bắn hỏa châu lên soi sáng bãi chiến trường, chúng tôi là những mục tiêu ngon lành cho súng lớn, pháo binh, cối và đại liên của địch. Yosef Bentowitz người láng giềng của tôi nơi làng Nahalal là xạ thủ trên chiếc “Con Cọp”, nhô lên cao từ pháo tháp để điều chỉnh khẩu đại bác 2 pound, bị trúng đạn chết ngay tức khắc. Một chiếc bán xích sắt trúng đạn làm sáu quân nhân bị thương nặng. Mấy chiếc Jeep chạy qua lại sau những chiếc xe bọc sắt nhờ vậy chưa bị thiệt hại.
Qua khỏi phòng tuyến này, lúc băng qua con đường một xe bọc sắt “nội hóa” bị lật, các xe khác đi vòng qua và tiểu đoàn tiếp tục hướng về Karatiya. Trên bản đồ, có đường xe đi lên đồi, nhưng bản đồ sai, không có một lối đi nào dẫn lên trên đỉnh đồi Raratiya, mục tiêu quan trọng dành cho tiểu đoàn chúng tôi.
Ngay dưới chân đồi có một con suối mùa, không có nước nhưng làm thành một chướng ngại vật như một hào rộng dẫn nước mà xe không băng qua được. Trong khi đang tìm cách băng qua, các binh sĩ bị thương được khiêng lên xe cứu thương, các tài xế xem xét lại xe cộ.
Quân Ả Rập từ phòng tuyến chính để cho đoàn xe băng qua được vẫn tiếp tục pháo kích bằng súng cối từ phiá sau. Tiến thối lưỡng nan, tôi ra lệnh chỉ để lại người canh phòng còn tất cả nhào xuống hào, tìm đủ mọi cách, dụng cụ đào một con đường đủ rộng cho xe băng qua. Một sĩ quan trung đội trưởng đứng đốc thúc công việc, đó là Amos Abramson quê quán làng Yavniel trong vùng Galilee, vừa tốt nghiệp khóa huấn luyện sĩ quan, ra thẳng đơn vị.
Hơn một tiếng đồng hồ sau, lối đi cho xe cộ đã gần xong, tôi cho lệnh đơn vị di chuyển băng qua hào, xe nào không qua được đành phải bỏ lại. Tất cả các quân nhân dồn lên các xe đã qua được rồi tiến lên tấn công Karatiya. Đại đội bộ binh trong lữ đoàn Givati đã bắt kịp chúng tôi đang ở bên kia hào, khi nào tiểu đoàn Biệt Động Quân đánh chiếm xong Karatiya sẽ bàn giao căn cứ địch lại cho họ.
Đoàn xe di chuyển khi còn cách mục tiêu 200 thước, mấy xe bán xích sắt dàn hàng ngang tiến lên. “Con Cọp” vẫn là mũi dùi chính, vừa tiến lên vừa bắn từng quả đạn đại bác vào mục tiêu. Địch quân đã rút lui, chúng tôi chiếm được mục tiêu dễ dàng hơn dự tính. Đại đội bộ binh vào sau, lục xoát căn cứ của địch tìm chiến lợi phẩm và thiết lập sự phòng thủ. Nhiệm vụ hoàn tất, tôi ra lệnh gom tiểu đoàn lại tìm đường khác quay trở về căn cứ. Lúc đó đúng 6 giờ sáng ngày 18 tháng Bẩy.
Về đến căn cứ, cho mọi người nghỉ ngơi, tôi lái xe vào bệnh viện thăm các quân nhân bị thương, không biết rằng đó là ngày cuối cùng phục vụ trong tiểu đoàn 89 Biệt Động Quân.
No comments:
Post a Comment