Đến năm 1930, mọi chuyện mới tạm yên. Ari càng lớn càng giống cha, cả về vóc dáng lẫn tính tình. Chàng có một cô bạn gái, tên Dafna ở làng gần đó. Cô em gái Jordana, tóc đỏ như Bố, cũng lớn khôn và ngang tàng. Vừa mới mười lăm tuổi, Ari đã gia nhập Haganah, đội quân bí mật, tiền thân của quân đội Do Thái. Jordana, tuổi mười ba đã biết xử dụng nhiều loại vũ khí. Hai anh em nhà Ben Canaan tượng trưng cho thế hệ thứ ba của Do Thái.
Trong vùng đất Palestine, người Ả Rập đe dọa người Anh không được cho người Do Thái di dân về Palestine, và bán đất cho họ. Trong khi đó, thế hệ trẻ Do Thái Yishuv rất cần nhân lực và súng đạn để tự vệ. Phương pháp chống đối duy nhất của Yishuv lúc đó dựa vào Haganah và Aliyah Bet, những tổ chức bí mật của Do Thái.
Haganah đã tăng quân số lên đến 25 ngàn người, tuy vậy chỉ có một số ít cấp chỉ huy, còn lại là những nông gia, những người Do Thái bình thường. Trong tất cả những làng chiến đấu kibbutz, đều có Haganah nằm vùng để giúp dân làng phòng thủ. Người chỉ huy Haganah lúc đó là Avidan, đã khéo xây dựng, che dấu Haganah trước mắt người Ăng Lê. Họ có radio liên lạc, và hệ thống tình báo khắp nơi trên thế giới, mua vũ khí lậu đem về Do Thái.
Các làng chiến đấu kibbutz dược Haganah xử dụng làm nơi huấn luyện, che dấu nhân lực, cơ xưởng sản xuất vũ khí đạn dược. Kibbutz cũng là chỗ nương náu cho di dân nhập cảnh lậu, các cấp lãnh đạo lỗi lạc Do Thái sau này cũng thuờng trải qua giai đoạn sống và chiến đấu trong các kibbutz.
Năm 1933, sau một vụ tấn công của người Ả Rập, người Do Thái trong các làng chiến đấu dưới sự chỉ huy của Haganah đã chống trả quyết liệt. Avidan vẫn xử dụng Haganah để tự vệ. Nhiều người trong Haganah không đồng ý. Những người này thuộc nhóm quá khích, đòi hỏi Haganah phải trả đũa tương xứng.
Akiva là một lãnh tụ trong nhóm quá khích. Bình thường, ông ta chỉ là một nông gia nuôi bò sữa trong làng chiến đấu Ein Or, nhưng trên thực tế, Akiva là một nhân vật cao cấp trong Haganah, chỉ huy vấn đề phòng thủ trong vùng Galilee. Cuộc đời cay đắng làm cho Akiva (Yakov) chóng già hơn ông anh Barak (Jossi), gương mặt khắc khổ, chòm râu đã hoàn toàn đổi sang mầu trắng. Akiva còn mất đi người vợ thương yêu Ruth và con gái Sharona.
Khi người Ăng Lê ngăn cản tầu bè đem người di cư Do Thái về Palestine, Akiva nổi giận đòi phải trả đũa. Cùng với những đàn em thân tín cùng chí hướng trong Haganah, họ làm một chuyện rúng động trong tổ chức Yishuv.
Mùa Xuân năm 1934, Barak Ben Canaan, nhận được cú điện thoại khẩn từ ông trùm Haganah, Avidan, yêu cầu Barak đến Jerusalem gấp.
- Chuyện lớn xẩy ra, Barak. Ông em của ông Akiva đã rút lui khỏi tổ chức Haganah, ngoài ra còn kéo thêm một tá nhân vật cao cấp đi theo. Hàng trăm người khác cũng sắp xửa đi theo luôn.
Được ông trùm Haganah báo cáo Barak chới với.
- Ông em tôi, từ xưa đến giờ vẫn vậy. Kể từ khi cha chúng tôi bị giết chết. Akiva còn mất thêm vợ con.
- Ông cũng biết, tôi cầm chân Akiva lại... Nếu không, ngày mai họ sẽ tuyên chiến với người Ăng Lê. Nếu nhóm Akiva chơi trò khủng bố, Yishuv sẽ phải trả lời dư luận thế giới cho những hành động điên khùng đó.
Barak đi lên Ein Or, gần làng Yad El. Ein Or cũng như những kibbutz đã xây dựng từ lâu, trở nên xanh ngát với những luống rau cỏ, trái cây. Là một người đứng tuổi, sáng lập ra làng, Akiva được ở trong một căn nhà nhỏ ấm cúng, đầy sách vở. Ông ta còn có máy radio và phòng vệ sinh riêng, một điều hiếm có trong làng chiến đấu. Akiva yêu làng Ein Or, cũng như Shoshanna. Sau ngày mất bà vợ Ruth và đứa con gái, Barak đã mời ông em về sống chung với gia đình mình, nhưng Akiva từ chối, chỉ muốn sống với bóng ma của vợ con.
Akiva đã biết trước cuộc nói chuyện giữa ông trùm Haganah Avidan và Barak, nên đã xửa soạn đối đầu với ông anh ruột mình.
- Bộ chỉ huy trung ương Yishuv nhờ anh đến đây để làm chuyện van xin?
- Tôi đến nếu được biết chú làm chuyện điên rồ, mà họ không cần phải mời. Akiva, mọi chuyện đều chấp nhận được với sự cai trị của người Ăng Lê.
- Như vậy anh mới là người khờ dại.
- Đồng ý, tôi đã từng sai lầm, nhưng ở đây chính quyền người Anh cai trị Palestine.
- Trong khi bọn chúng cắt cổ mình, mấy ông xếp Yishuv chỉ đi họp, đem theo cặp táp, rồi lại cúi đầu chấp nhận để cho bọn cắt cổ giết người lộng hành.
- Chúng ta sẽ đạt mục đích một cách hợp pháp.
- Mình phải chiến đấu bằng mồ hôi, bằng máu, không thể chờ người Anh ... cho phép.
- Akiva. Tôi khuyên chú lần chót... Đừng làm điều dại dột.
- Để tôi nói cho anh nghe. Có một thằng Do Thái điên, nhưng nó muốn sống.
Barak nổi nóng bước ra cửa.
- Tôi không bao giờ muốn thấy chú đến nhà nữa. Mình đã hết tình anh em.
Akiva (Yakov) lặng nhìn anh mình vài giây, rồi nói.
- Anh vẫn là anh của tôi. Anh đã cõng, khi tôi kiệt sức về đến Palestine.
- Tôi rất hối hận vì đã làm điều đó.
- Tôi là một người Do Thái, yêu cố hương Palestine chẳng kém gì anh. Anh đã ngăn cản nguyện vọng của tôi...
Ari Ben Canaan là niềm hãnh diện của gia đình Ben Canaan. Mới mười bẩy tuổi, Ari đã cao sáu bộ, khoẻ như sư tử. Ngoài tiếng Hebrew, tiếng Anh, Ari còn biết tiếng Ả Rập, Đức, Pháp và Yiddish. Chàng thích công việc đồng áng, cùng với cô bạn gái Dafna và những bạn trẻ khác thám hiểm khắp nơi. Họ đi thăm những bải chiến trường xưa, tìm những ngôi mộ cổ, trèo lên núi Masada, nơi mà người Hebrew đã chống lại người La Mã trong ba năm. Họ cũng vào vùng sa mạc, tìm dấu vết của Moses và mười hai bộ lạc.
Ai cũng nghĩ rằng, sau khi học xong, Ari và Dafna sẽ thành hôn, lập nghiệp ngay trong làng Yad El, hoặc cùng với các bạn trẻ khác đi tìm vùng đất mới lập kibbutz. Dafna đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, hấp dẫn, dành trọn tình yêu cho người con trai họ Ben Canaan. Trong khi đó Ari đã chứng tỏ khả năng, tài lãnh đạo chỉ huy, mà ông trùm Haganah Avidan hy vọng chàng sẽ trở nên một cấp chỉ huy tài giỏi nhất trong vùng Palestine.
Chính Ari đã tổ chức vấn đề phòng thủ trong làng Yad El, Ein Or và nhiều làng chiến đấu khác. Ari đã dành hết thì giờ làm việc cho Haganah, khi phong trào đưa dân nhập cảnh lậu từ Âu châu về Palestine, Ari đã được Haganah trao cho nhiệm vụ.
Avidan khuyến cáo lãnh tụ Quốc Gia cực đoan Zionism Ben Gurion phải mua thêm đất, thiết lập một hệ thống làng chiến đấu kibbutz để bảo vệ phần đất đã sở hữu. Họ mua một khu đất nằm nơi xa nhất trong vùng Galilee, sát biên giới Li Băng (Lebanese), nơi mà Avidan nghi ngờ phát xuất ra các toán cướp Ả Rập. Ari Ben Canaan cùng với hai bạn trẻ cao cấp Haganah được triệu hồi về Tel Aviv để nhận chỉ thị.
Ông trùm Haganah, Avidan trải tấm bản đồ ra, chỉ tay vào và ra lệnh cho thanh niên trẻ.
- Tôi muốn ba người chỉ huy một đơn vị đi lên chỗ này lập kibbutz. Chúng tôi đã chọn 80 chiến sĩ trẻ cùng với 20 thiếu nữ đi theo các anh. Tôi không cần phải nói thêm những gì các anh sẽ gặp phải (kẻ thù Ả Rập).
Cả ba thanh niên trẻ gật đầu, tuân lệnh. Sarah Ben Canaan lo ngại, Haganah đưa con mình vào chỗ chết, mấy năm nay, lúc nào bà ta cũng trông thấy con mình cầm súng hay cầm roi da. Ari cúi xuống hôn Mẹ, lau những giọt nước mắt già nua thay cho lời từ giã. Chàng bắt tay ông Bố cứng rắn Barak. Dafna cũng xuất hiện để từ giã, cô cũng là một trong 20 thiếu nữ được Haganah tuyển chọn để thi hành nhiệm vụ. Nhìn hai người trẻ ra đi, Barak ôm vai vợ.
- Thượng Đế yêu cầu Abraham cho đứa con trai để tế thần. Mình cũng phải để Ari ra đi, nếu Thượng Đế cần đến.
Một trăm thanh niên thiếu nữ được đưa lên trấn giữ vùng biên giới Li Băng để ngăn chặn những toán cướp của, giết người Ả Rập. Ari là cấp chỉ huy cao cấp thứ hai trong làng chiến đấu họ xây dựng, và đặt tên là Ha Mishmar (Đồn Canh).
Mười chiếc xe vận tải chở đoàn thanh niên thiếu nữ Do Thái cùng đồ trang bị, làm việc. Đoàn xe đi dọc theo bờ biển lên phía bắc, qua khỏi làng Nahariya, “phòng tuyến”, ngôi làng xa nhất của Do Thái nơi hướng bắc Galilee, đi sâu vào vùng đất mà chưa người Do Thái nào đặt chân đến. Trong khi đó, hàng ngàn cặp mắt Ả Rập theo dõi đoàn xe suốt lộ trình.
Khi đoàn xe đến vị trí “đổ quân”, đám người trẻ Do Thái bốc rỡ “hàng” nhanh chóng, sắp đặt ngay các vọng gác, lập tuyến phòng thủ, vì đoàn xe phải quay về làng chiến đấu Nahariya trước khi trời tối để tránh phục kích.
Sáng hôm sau tin người Do Thái đã lên đến các ngọn đồi được loan truyền đi khắp nơi, từ Hebron cho tới Beirut. Trùm Ả Rập Haj Amin el Husseini tức điên lên, rõ ràng bọn Do Thái thách đố. Ông ta nguyền trước đấng Allah, sẽ ném bọn Do Thái xuống biển.
Trong vòng mấy ngày kế tiếp, đơn vị Haganah xây dựng, củng cố hệ thống phòng thủ từ dưới chân đồi lên. Họ tin rằng, sớm muộn gì, quân Ả Rập sẽ tấn công.
Đúng như vậy, đêm thứ tư, quân Ả Rập kéo đến tấn công. Đám thanh niên thiếu nữ Do Thái chưa từng gặp phải những chuyện như vậy. Hàng ngàn tay súng Ả Rập, cùng với súng đại liên từ trên đồi bắn xuống như mưa vào vị trí của họ trong vòng năm tiếng đồng hồ. Đây cũng là lần đầu tiên quân Ả Rập xử dụng súng cối pháo kích. Ari cùng các chiến hữu vẫn nằm sâu dưới giao thông hào chờ cho địch tấn công. Sau khi đợt bắn phủ đầu chấm dứt, quân cướp Ả Rập, miệng ngậm dao bò vào tuyến phòng thủ Do Thái.
Bỗng dưng, hỏa châu bắn lên, quân Do Thái nổ súng bắn trả làm chết tại chỗ sáu tên cướp. Bị bất ngờ, quân Ả Rập khiếp sợ, trong khi Ari chỉ huy một toán quyết tử ra ngoài phòng tuyến phản công làm phiá Ả Rập chết, bị thương vô số, vội chạy trở lên trên đồi.
Quân Ả Rập không dám quay trở lại tấn công khoảng một tuần. Đợt đầu phiá Do Thái có ba thanh niên và một thiếu nữ tử trận. Một trong ba người chết có cấp chỉ huy, Ari trở nên người chỉ huy cao nhất trong làng kibbutz Ha Mishmar. Mỗi ngày quân Do Thái tiến lên đồi vài thước, thiết lập vị trí phòng thủ mới, trong khi quân Ả Rập chỉ quan sát và bắn quấy rối hằng đêm. Hết tuần lễ, Ari quyết định bỏ căn cứ ở dưới, lập căn cứ mới lưng chừng ngọn đồi, nơi vừa chiếm được.
Qua bài học cay đắng, quân Ả Rập vẫn phá rối không dám tấn công. Ari quyết định tấn công (Đánh cho bõ ghét, đánh cho chừa), lập toán xung kích do chàng lãnh đạo gồm hai mươi thanh niên, mười thiếu nữ. Toán xung kích lợi dụng đêm tối, bò lên đỉnh đồi, bất thần tấn công vào lúc rạng đông, trong khi quân Ả Rập vẫn còn ngái ngủ. Ari chiếm được ngọn đồi, chỉ mất năm chiến sĩ. Họ củng cố vị trí phòng thủ nhanh chóng chờ cho quân Ả Rập tập trung phản công.
Trùm Ả Rập Husseini nổi điên, thay cấp chỉ huy mới, nhưng vẫn không làm gì được, vì quân Do Thái đã chiếm vị trí thượng phong ở trên đỉnh đồi. Ari bắt đầu tổ chức những toán tuần tiểu đêm để đề phòng quân thù đột nhập vào phòng tuyến. Sự thành công của Ha Mishmar làm Haganah phấn khởi, tiếp tục tổ chức những làng “tiền tuyến” để mở rộng đất đai. Trong khi đó, ở Mishmar, một điều bất hạnh xẩy đến cho Ari. Quân Ả Rập lọt vào tuyến phòng thủ, bắt cóc cô vợ tương lai Dafna. Xác nàng được tìm thấy hai ngày sau, bọn Ả Rập cắt tai, mũi, và hai bàn tay. Cặp mắt bị khoét, nàng bị hãm hiếp cả trăm lần trưóc khi bị giết.
Một sĩ quan Ăng Lê, Thiếu Tá P.P. Malcolm thích sự can đảm của dân Do Thái, ông ta dậy Ari chiến thuật biệt kích, đánh sau lưng địch quân. Với sự giúp đỡ của Thiếu Tá Malcolm, người Do Thái bắt đầu lên vị thế tấn công, không phải chờ cho địch tấn công trước. Ari được chỉ định làm xếp đơn vị mới thành lập, nhưng sau đó người Anh ép buộc họ phải giải tán. Ari buồn bã giã từ những ngọn đồi, nơi người yêu Dafna cùng hai mươi chiến sĩ Haganah an giấc nghìn thu.
Trở lại làng cũ Yad El, ít lâu sau năm 1939, Ari được Aliyah Bet tuyển mộ ngầm và chàng chiến sĩ bí mật qua Âu châu...
VIII. MẮT ĐỔI MẮT.
Một hàng xe bus sơn mầu bạc và xanh đợi sẵn trẻ em nơi bến tầu trong hải cảng Haifa. Sự chào đón đã được giảm đến mức tối thiểu vì vấn đề an ninh. Các trẻ em được đưa lên xe bus, rồi đoàn xe được một xe bọc sắt quân đội Anh đi mở đường. Ban nhạc Do Thái, và dân chúng đứng đầy hai bên đường reo hò chúc mừng khi đoàn xe đi ngang qua. Karen mở cửa sổ xe bus gọi Kitty, nhưng chẳng ai nghe được vì tiếng reo hò của dân chúng Do Thái. Trong mười lăm phút, đoàn xe bus biến mất, đám đông nơi bến tầu giải tán chỉ còn lại vài binh sĩ Anh canh gác.
Kitty cảm thấy lạ, nàng nhìn xung quanh cảnh hải cảng Haifa. Khung cảnh rất đẹp với thành phố được xây trên những ngọn đồi nhìn xuống hải cảng. Zev, David và Joab cắt ngang giòng trầm tư của Kitty. Họ đến chào, cám ơn, hy vọng sẽ được dịp gặp lại rồi biến mất để Kitty ở lại một mình nơi bến.
- Thành phố này đẹp chứ?
Kitty quay lại, Ari Ben Canaan đang đứng sau lưng nàng. Chàng nói tiếp.
- Chúng tôi thường đưa du khách đến Palestine qua hải cảng Haifa, dành cho họ cảm tưởng đầu tiên hứng thú.
- Họ đưa trẻ em đi đâu?
- Chúng sẽ được phân tán đi đến các trung tâm Aliyah cho người trẻ. Vài trung tâm đặt bên trong các làng chiến đấu kibbutz, hoặc các làng khác. Ít hôm nữa tôi có thể cho biết Karen được đưa đến đâu.
- Tôi sẽ rất cám ơn.
- Cô có chương trình nào không, Kitty?
- Tôi cũng tự hỏi mình câu đó. Tôi là người lạ trong phố.
- Tại sao cô không để tôi tìm chỗ cho?
- Tôi nghĩ rằng ông sẽ rất bận với công việc.
- Tin nơi tôi. Trung tâm Aliyah cho người trẻ là chỗ rất thích hợp cho cô. Người trông coi cơ quan đó là bạn thân của tôi. Tôi sẽ sắp xếp mọi chuyện cho. Nếu cô không ngại, tôi sẽ đưa cô đi thăm Jerusalem, vả lại ngày mai tôi phải đi Tel Aviv có công chuyện. Tối nay mình phải ở đây vì luật giới nghiêm.
Ari gọi một xe taxi đưa chàng và Kitty lên đỉnh Mount Carmel, vào khu Do Thái trải rộng ra trên những ngọn đồi. Xe dừng lại trước một căn nhà nhỏ có hàng dương che khuất. Ari nói với Kitty.
- Mình ở đây là tốt nhất. Tôi có quá nhiều bạn ở đây, họ sẽ không để tôi rảnh rang một phút. Cô cứ ở đây, để tôi đi kiếm một chiếc xe.
Tối hôm đó, Ari đưa Kitty đi ăn trong một nhà hàng tọa lạc trên đỉnh Carmel. Tại đây Kitty có thể nhìn bao quát khung quảnh xung quanh thật đẹp đẽ làm nàng thích thú, không ngờ người Do Thái ở Haifa tân tiến được như vậy. Các thành phố cổ như Athens hoặc Salonika đâu được như vậy.
Bỗng dưng, âm nhạc tạm ngưng, một xe tuần cảnh chở đầy lính Anh đỗ ngay trước cửa nhà hàng. Một sĩ quan dẫn theo sáu binh sĩ đi vào khám xét giấy tờ. Ari ghé tai Kitty “Chuyện này thường xuyên rồi cô sẽ quen đi”. Vị đại úy nhận ra Ari bước lại bàn.
- Nếu đúng ông là Ari Ben Canaan, bọn tôi có ảnh và đã theo dõi ông từ lâu, sợ ông làm chuyện mờ ám.
- Chào Trung Sĩ. Tôi sẽ giới thiệu nếu còn nhớ tên ông.
Bị Ari giáng cấp bậc, viên Đại Úy nghiến răng.
- Phòng của ông đã dọn sẵn trong nhà tù Acre. Hy vọng lần này cấp chỉ huy của tôi dành cho ông sợi dây treo cổ.
Vị sĩ quan Ăng Lê chào rồi bỏ đi. Kitty sững sờ lên tiếng.
- Chào đón đến Palestine gì mà kỳ vậy. Viên sĩ quan là người bất lịch sự.
Ari ghé tai Kitty thì thầm.
- Ông ta là Đại Úy Allan Bridges, là người bạn tốt nhất của Haganah. Ông ta thông báo cho biết những kế hoạch của bọn Ả Rập lẫn quân đội Anh.
Kitty vẫn chưa hết ngạc nhiên, Ari trấn an “Đừng lo. Dần dần sẽ quen đi”. Chàng định nói tiếp bỗng một chấn động làm rung nhà hàng, các cửa kính vỡ tan rơi dưới đất, bát đĩa trên bàn cũng rơi xuống. Trong chớp mắt họ trông thấy một khối lửa khổng lồ bay lên trời. Thêm một loạt tiếng nổ khác theo sau, kèm theo những tiếng la thét. “Nhà máy lọc dầu!... Họ phá nhà máy lọc dầu... Nhóm quyết tử Maccabee đột kích”. Ari nắm tay Kitty.
- Mình phải ra khỏi đây ngay, trong vài phút nữa khu này sẽ tràn đầy binh sĩ Anh.
Sáng hôm sau, nhà máy lọc dầu vẫn còn cháy, khói đen vẫn còn che phủ bầu trời Haifa. Tin tức cho biết, quân khủng bố Maccabee làm chuyện này. Thủ lãnh của Maccabee là Ben Moshe, Con của Moses. Ông trùm Maccabee trong vùng Palestine chính là Akiva, người em của Barak Ben Canaan, chú của Ari. Akiva đã từng là một giáo sư trong viện đại học Hebrew trước khi thăng tiến nhanh chóng trong tổ chức Maccabee. Maccabee làm “vố” này để chào đón sự trở về của chiếc tầu Exodus. Đó là một trận tấn công lưỡng diện, một toán khủng bố Maccabee thứ hai đột kích vào phi trường Lydda, một nơi khác trong Palestine, phá hủy một số chiến đấu cơ Spitfire trị giá sáu triệu đô la.
Ari kiếm được một chiếc xe Fiat đưa Kitty đi Tel Avi. Họ đi xuống Carmel, theo ngã băng qua Samaria, Kitty thích thú nhìn màu xanh tươi mát của các làng Do Thái. Chợt đằng trước có cảnh sát Ăng Lê chận đường xét giấy tờ, Ari vội rẽ vào con đường khác, qua những tàn phế của thành phố cổ Caesarea. Ari chỉ tay về phiá làng Sdot Yam, Cánh Đồng của Biển và nói với Kitty “Joab Yarkoni sống ở đó”.
Vào đến Tel Aviv, một chiếc xe bọc sắt quân đội Anh, gắn loa phóng thanh thông báo “Tất cả mọi người Do Thái chú ý. Theo lệnh của Tướng Tư Lệnh Vùng Palestine, mọi người Do Thái không được ra đường sau khi trời tối”. Ari đưa Kitty vào một khách sạn, để rảnh tay “lo công chuyện”.
Chàng lái xe ra ngoại ô đến Ramat Gan, Vườn trên Đồi. Khác với những chung cư, khu này nhà cửa thanh lịch, sang trọng. Nhà nào cũng có thảm cỏ xanh, vườn trồng cây. Ari đậu xe, rồi đi bộ khoảng nửa tiếng đồng hồ cho chắc chắn không bị theo dõi.
Chàng đến căn nhà số 22 trên đường Montefiore, một biệt thự lớn, tư gia của Bác Sĩ Y. Tamir. Bác sĩ Tamir ra mở cửa, bắt tay Ari rồi đưa chàng xuống basement. Căn biệt thự này cũng là bộ chỉ huy Haganah.
Dưới basement có vũ khí súng đạn, nhà in những truyền đơn cảnh cáo người Ả Rập nên bình tĩnh và giữ hoà bình. Trong một phòng khác, một cô gái đang nói bằng tiếng Ả Rập những lời đe dọa, ghi âm vào băng cassette, để phát đi trên làn sóng radio bí mật “Tiếng Nói Do Thái”. Khi trông thấy Ari bước vào cùng với bác sĩ Tamir, mọi người tạm ngưng công việc, chạy lại chúc mừng chuyến Exodus. Bác sĩ Tamir xua tay “Để chút nữa. Chút nữa”. Ari cười nói “Tôi cần gặp Avidan (trùm Haganah)”.
Ari cũng đã quá quen thuộc ngôi biệt thự này, đi ngang qua chỗ giá đựng súng, đến trước một cánh cửa đóng kín. Chàng gõ cửa, bên trong có tiếng người “Ai”. Ari mở cửa bước vào trong phòng. Trước mặt chàng là một người đàn ông trán hói, khuôn mặt vuông, trùm đạo quân bí mật Haganah. Ông trùm Avidan đang đọc chồng giấy tờ ngổn ngang trên bàn, đứng dậy, quàng tay qua cổ Ari “Ari. Chào bạn trẻ”. Ông ta vỗ mạnh vào lưng Ari, đẩy chàng ngồi xuống ghế
- Ari. Anh làm bọn Ăng Lê cú đẹp. Các bạn trẻ khác đâu rồi?
- Tôi cho họ về thăm nhà (David, Joab, Zev).
- Đúng. Họ xứng đáng mấy ngày phép.
Nghỉ phép đối với ông trùm Avidan là điều xa xỉ mà ông ta không dám xử dụng đã một phần tư thế kỷ. Bỗng Avidan đặt câu hỏi.
- Người đàn bà đi với anh là ai vậy?
- Bà ta là người Hoa Kỳ có cảm tình với dân Do Thái. Tôi định đưa đi Jerusalem ngày mai gặp Harriet Saltzman, kiếm một chỗ trong khu Aliyah cho người trẻ.
Avidan rút khăn tay mầu xanh trong túi quần ra lau mồ hôi trên trán. Ari nói lảng xang chuyện khác.
- Hôm qua Maccabee chào đón chúng tôi lớn quá. Nhà máy lọc dầu sẽ cháy cả tuần.
- Hôm qua họ làm một “cú” ngoạn mục, thế còn ngày mai sẽ ra sao? Avidan lắc đầu nói tiếp. Người Ăng Lê sẽ không để mình yên. Maccabee còn đánh cướp nhà băng để có ngân khoản tài trợ cho các hoạt động của họ.
- Nhà băng Anh. Có lẽ đã đến lúc mình phải làm vài vố như Maccabee.
- Không được... Nguy hiểm cho Haganah. Mình có nhiệm vụ bảo vệ tất cả người Do Thái... lo việc định cư cho những người nhập cảnh lậu v.v...
Avidan đưa cho Ari một tờ giấy để đọc. Đó là lệnh hành quân cho một số đơn vị Anh, do tình báo Haganah lấy được. Ari đọc xong danh sách những đơn vị Anh xong đặt câu hỏi.
- Bây giờ tôi phải làm gì?
- Cứ về nhà nghỉ ít hôm đã, sau đó trình diện đơn vị Palmach (xung kích của Haganah) trong làng Ein Or. Tôi muốn anh duyệt xét hệ thống phòng thủ các làng trong vùng thung lũng Galilee.
Ari bước ra cửa, Avidan nói với theo.
- Cho tôi gửi lòng cảm mến đến Barak và Sarah. Còn Jordana, nói cô ta cẩn thận, anh Ari đã về nhà.
Hai chiếc xe bus chở 50 trẻ em trong chuyến Exodus đi ngang qua những phế tích của thành phố cổ Hazor, vào thung lũng Huleh. Trẻ em trong xe đã mở các cửa sổ để ngắm cảnh bên ngoài, đưa tay chỉ trỏ, bàn tán xôn xao. Karen quá xúc động về miền đất Hứa, nói “Dov! Tất cả mọi vật đều đẹp đẽ”. Xe tiếp tục đi sâu vào thung lũng, đến làng Yad El, làng của Ari Ben Canaan. Tại ngã ba, trẻ em trông thấy tấm bảng chỉ lên phiá bắc sát biên giới Li Băng, có tên làng Gan Dafna, nơi sẽ đến. Tất cả đều hứng khởi, thích thú, ngoại trừ anh chàng Dov Landau vẫn theo đuổi một thế giới riêng tư.
Xe vào trong làng chiến đấu Gan Dafna, Khu Vườn của Dafna rồi ngừng lại. Ban nhạc trong làng đã đợi sẵn chào đón với những bản nhạc quân hành, trong khi các em xuống xe. Ngay giữa làng, có bức tượng lớn như người thật của Dafna cầm súng chiến đấu. Dafna là người yêu của Ari Ben Canaan, bị quân Ả Rập giết do đó mọi người lấy tên đặt cho làng. Tên cũ của nó là Ha Mishmar.
Vị sáng lập ra Dafna là Bác Sĩ Lieberman, ngậm ống vố, lưng gù đứng bên cạnh bức tượng, ngỏ lời chào đón các trẻ em. Ông ta nói sơ qua về cuộc đời của ông, đến Palestine từ Đức năm 1934, và lập ra làng Dafna vào năm 1940. Sau đó ông đến bắt tay, hỏi thăm từng em. Mỗi em sẽ có một người dân trong làng chăm sóc.
- Bạn có phải là Karen Clements?
- Vâng.
- Tôi là Yona, bạn cùng phòng mới. Cô gái Ai Cập, Do Thái bắt tay Karen, nói tiếp.
- Mình đi về phòng. Bạn sẽ thích ở đây.
Karen hẹn sẽ gặp lại Dov rồi đi bên cạnh Yona. Cả hai đi ngang qua khu hành chánh, trường học, đến một khu có trồng cây hai bên lối đi. Yona cắt nghĩa “Mình may mắn, được ở khu này vì thuộc lớp đàn anh, đàn chị”. Karen ngạc nhiên khi bước vào bên trong, một cái giường ngủ, một cái bàn, một cái ghế, và một tủ đựng quần áo, được dành sẵn cho nàng.
Sau bữa cơm chiều, tất cả mọi người được mời ra rạp hát ngoài trời thưởng thức phần văn nghệ chào đón những khuôn mặt mới đến làng. Karen gặp Dov nơi bức tượng Dafna, nàng quá sung sướng trong bộ khaki xanh olive, áo chemise, thêm đôi dép sandal. Tất cả đều mới. “Dov. Đây là một ngày sung sướng trong đời em. Họ nói Bác sĩ Lieberman cũng là người dễ thương nhất trên thế giới”. Dov vẫn lặng thinh, có điều gì không được vui. Karen kéo chàng ta ngồi xuống bên cạnh “Hãy vui lên... Làm ơn vui lên”.
Ari Ben Canaan đứng chờ gần một nhà thờ Hy Lạp trong khu Nga Sô. Trời đã tối, Bar Israel bất ngờ xuất hiện, Ari đi theo người hướng dẫn qua một đường hẻm nhỏ, có một xe taxi đợi sẵn. Cả hai người leo lên, Bar Israel lấy trong túi ra một khăn tay mầu đen.
- Tôi cũng phải qua thủ tục này sao?
- Tôi tin anh Ari, nhưng lệnh là lệnh.
Miếng vải đen cột chặt vào mắt Ari, sau đó chàng bị đẩy nằm sát xuống nệm ghế và phủ lên một tấm chăn đen. Chiếc xe taxi chạy quanh co một lúc để Ari không thể định hướng, sau đó chạy ra khu Katamon, thuộc điạ cũ của người Đức. Xe taxi ngừng lại, Ari được dẫn vào một căn nhà, một phòng rồi được cho phép cởi miếng vải đen che mắt ra.
Trong phòng chẳng có gì, ngoài một cái ghế, một cái bàn, trên có một ngọn nến cháy leo lét, một chai rượu và hai cái ly. Phải mất vài giây, Ari mới nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Trước mặt chàng là ông chú Akiva đang đứng bên kia cái bàn nhìn chàng. Râu và tóc ông ta đã biến ra mầu trắng như tuyết. Ari bước lại đứng trước mặt ông chú.
- Chào Chú.
- Chào cháu. Đứa con trai của tôi.
Hai chú cháu ôm nhau, ông trùm đặc công Do Thái Akiva cảm động, cầm ngọn nến lên soi mặt người cháu.
- Cháu trông khỏe mạnh. Cháu làm cú ngoạn mục trên đảo Cyprus.
- Cám ơn Chú.
- Cháu đến đây với một phụ nữ, chú được nghe tiếng?
- Một phụ nữ Hoa Kỳ, người giúp đỡ bọn cháu. Chú có được khỏe không?
Akiva gật gù.
- Vẫn khỏe... Đã hơn hai năm chú mới được trông thấy cháu. Ari... quá lâu. Jordana theo học trong viện đại học Hebrew, chú gặp nó hàng tuần. Nó cũng gần hai mươi tuổi rồi còn gì. Hồi này nó thế nào? Còn cặp kè với thằng bồ cũ không?
- David Ben Ami. Vâng tụi nó hạnh phúc lắm. David làm việc với cháu ở Cyprus. Nó có tương lai sáng trong chúng ta.
- Anh của nó là Maccabee, cháu biết không? Ben Moshe là thầy nó trong viện đại học Hebrew. Có lẽ, sẽ có ngày Chú gặp nó.
- Thưa vâng. Lẽ dĩ nhiên.
- Chú nghe nói Jordana gia nhập Palmach?
- Dạ vâng. Em cháu huấn luyện trẻ em trong Gan Dafna.
- Như vậy nó có dịp ở gần làng Ein Or của Chú. Có nghe nó nói gì không?
- Dạ. Nó nói Ein Or đẹp lắm.
Akiva ngồi xuống ghế rót rượu ra cho hai chú cháu.
- Hy vọng, một ngày nào đó Chú sẽ về thăm làng Ein Or.
- Hôm qua cháu gặp Avidan, ông ta đưa cho cháu xem lệnh hành quân của bọn Anh.
- Chú cũng có “bạn” trong tình báo Ăng Lê.
Ông trùm đặc công, đứng dậy đi qua, đi lại.
- Haven Hurst muốn xóa bỏ tổ chức của Chú. Bọn Ăng Lê có lệnh tận diệt Maccabee. Họ tra tấn người mình, treo cổ chúng ta. Điều đáng buồn là chỉ có Maccabee đơn độc chống lại bọn chúng. Và chỉ có Maccabee mới đủ can đảm làm chuyện đó... Mình phải thanh toán những kẻ phản bội trong chúng ta... Chúng tôi biết rằng Haganah bán đứng bọn tôi.
- Điều đó không đúng. Thưa Chú.
- Điều đó đúng.
- Không phải vậy! Hôm nay trong bộ chỉ huy trung ương Yishuv, Haven Hurst ra lệnh người Do Thái phải loại trừ Maccabee, và họ vẫn từ chối.
Akiva vẫn ráng làm nguôi cơn giận... Ông ta quay lưng lại rồi hỏi Ari.
- Thế còn ông anh của Chú hồi này ra sao?
- Dạ. Bố cháu vẫn khỏe, ông ta sắp đi dự hội nghị bên Luân Đôn.
- Ừ! Barak. Ông ta sẽ nói... Sẽ nói đến cùng. Thế ông ta có biết cháu, Jordana, và mẹ cháu Sarah thỉnh thoảng thăm Chú không?
- Dạ. Chắc biết. Akiva có vẻ buồn hỏi tiếp.
- Thế ông ta có nhắc nhở đến Chú không?
- Thưa không!
- Ari. Bố cháu phải tha thứ cho Chú vì vong linh của Ông nội cháu.
Lúc đó đã xế chiều khi Ari rẽ vào cổng làng Yad El, chàng dừng xe trước một căn nhà trồng đầy hoa.
- Ari trông đẹp chưa.
Cánh cửa nhà mở toang, bà mẹ Sarah chạy ra.
- Ari, Ari. Rồi bà ôm người con trai.
- Chào Mẹ. Xin Mẹ đừng khóc (vì sung sướng).
Tiếp theo Kitty trông thấy bóng dáng to lớn của Barak Ben Canaan từ trong nhà chạy ra choàng vai Ari.
- Chào Bố.
Barak vỗ vào lưng người con trai Ari mấy cái.
- Trông con được lắm... trông được lắm.
Bà mẹ Sarah nhìn Ari.
- Con có mệt không? Ông Barak, ông xem con mình có mệt mỏi không.
- Con vẫn khỏe. Con có người bạn đi theo, để con giới thiệu. Đây là bà Katherine Freemont. Bà sẽ đến làm việc nơi làng Gan Dafna.
Barak đưa hai bàn tay khổng lồ nắm lấy tay Kitty.
- Ô! Bà đây là Katherine Freemont. Chúc mừng đến Yad El.
Sarah trách con trai.
- Tại sao con không gọi điện thoại báo trước, có mời bà Freemont. Thôi mời tất cả vào nhà.
Bà mẹ Sarah vòng tay qua ôm eo Kitty dìu nàng vào nhà, rồi ra lệnh như “Xếp xòng” trong gia đình.
- Con phải đi rửa mặt, thay bộ quần áo mới. Mẹ sẽ làm cơm, ăn xong con sẽ tỉnh ra ngay. Ông Barak, đem va li của bà Freemont vào trong nhà.
Jordana Ben Canaan đứng trước các trẻ em mới đến. Cô nàng cao như cha và ông anh Ari. Mái tóc đỏ xõa xuống ngang vai, hình ảnh xinh đẹp theo lối cổ điển trong người Do Thái. Jordana 19 tuổi, gia nhập Palmach sau khi thôi học viện đại học Hebrew. Palmach chỉ định nàng huấn luyện cho các trẻ em trên 14 tuổi. Nàng còn làm nhiệm vụ phát thanh làn sóng radio bí mật Tiếng Nói Do Thái. Jordana sống và làm việc trong làng Gan Dafna.
“Tôi là Jordana Ben Canaan, cấp chỉ huy của các em ở Gan Dafna. Những tuần lễ sắp tới, các em sẽ được huấn luyện về theo dõi, chuyển công điện, văn thư, lệnh lạc, Các em sẽ học bảo trì vũ khí, tác xạ, chiến đấu bằng gậy. Mình sẽ có những bài học di hành, đi khắp nơi. Trong vùng Palestine, các em không phải sợ, không còn mặc cảm bị khinh miệt là người Do Thái. Chúng ta sẽ làm việc cực nhọc, ngày mai là bài học di hành đầu tiên. Chúng ta sẽ leo lên những ngọn đồi nơi phiá bắc Tel Hai. Cha tôi về quê hương Palestine bằng ngã đó cách đây gần 60 năm. Đó cũng là nơi vị đại anh hùng của dân tộc Joseph Trumpledor chết. Ông ta được chôn cất ở đó. Nơi chôn cất có bức tượng sư tử đá nhìn xuống thung lũng Huleh, trên con sư tử có khắc hàng chữ “Điều sung sướng là được chết cho một quốc gia”. Chúng ta có thể thêm vào câu “Điều sung sướng là có một quốc gia để mà chết”.
Khi trở về bàn làm việc, chuông điện thoại reo, Jordana cầm ống nghe lên.
- Jordana đây.
- Mẹ đây con. Ari đã về thăm nhà.
Mừng vì gia đình đoàn tụ. Jordana chạy ra khỏi phòng làm việc, nàng đem con ngựa trắng của ông bố Barak ra, rồi nhẩy lên ra roi phóng về làng Yad El.
Cả nhà đang ngắm hoa ngoài vườn bỗng nghe tiếng vó ngựa, rồi tiếng gọi “Ari. Ari. Ari...”. Jordana thắng gấp con ngựa, nhẩy xuống rồi phóng vào người Ari. Hai anh em ngã lăn trên mặt đất. Jordana ngồi trên bụng anh mình, đấm vào ngực vào vai, vừa hôn ông anh. Ari đùa với em gái như hai anh em lúc nhỏ, chàng thọc léc cô em làm phát lên tiếng cười. Bỗng Jordana ngưng tay, nàng vừa trông thấy một khuôn mặt lạ. Kitty đưa tay ra bắt.
- Chào Jordana... Tôi được hân hạnh biết cô qua David.
- Bà là Kitty Freemont. Tôi cũng đã nghe nói nhiều về bà.
Cột con ngựa xong, Jordana quay sang Ari hỏi.
- Anh có gặp David không?
- Anh ta nghỉû trong Jerusalem vài hôm, nhắn anh sẽ gọi điện thoại cho cô tối nay. David sẽ đến đây chơi vào cuối tuần, hoặc nếu như cô muốn đi Jerusalem?
- Em đi không được, có trẻ em mới đến Gan Dafna.
- Còn chuyện nữa. Anh gặp Avidan, ông ta định đưa David qua làm việc trong lữ đoàn Galilee, trong làng Ein Or.
Ein Or gần Gan Dafna, như vậy sẽ được gần David. Jordana mở to cặp mắt xanh.
- Ari. Anh có nói thật không?
- Ờ. Ờ! Ai biết đâu cưng!
Bị chọc tức, nếu không có mặt Kitty, Jordana đã lăn xả vào tấn công ông anh.
- Em ghét bọn đàn ông như anh.
- Anh đâu dè... chuyện đó quan trọng dữ vậy!
- Em mừng lắm được gặp lại anh cũng như David.
Sáng hôm sau, Kitty chào từ giã gia đình ông bà Ben Canaan. Ari lái xe đưa nàng qua những ngọn đồi đến làng Gan Dafna. Xe ngừng lại làng Ả Rập Abu Yesha, Ari hỏi thăm người bạn ấu thơ Taha (con Kammal, lúc đó đã thay cha lên nắm chức trưởng làng), được biết Taha đi công chuyện sẽ trở lại khoảng một tiếng đồng hồ. Ari tiếp tục con đường đến Gan Dafna. Kitty đã vào gần đến nơi hiu quạnh, nàng cảm thấy cô đơn.
- Sau khi đến Gan Dafna, tôi phải đi ngay tức khắc. Ari nói với Kitty.
- Mình có gặp lại nhau nữa không?
- Có chứ, tùy lúc. Cô muốn gặp lại tôi nữa không, Kitty?
- Vâng.
- Tôi sẽ cố gắng.
Xe vào trong làng, Kitty trông thấy một đám trẻ em đứng xung quanh bức tượng Dafna. Có mặt Bác Sĩ Lieberman, cùng ban nhạc. Họ chào đón Kitty Freemont rất nồng hậu làm nàng cảm thấy yên tâm. Rồi Karen Clements chạy lại ôm chầm lấy Kitty, trao cho nàng bó hoa hồng nở trong muà đông. Kitty nhìn qua vai Karen, bóng dáng Ari từ từ biến mất.
Karen sung sướng nắm tay Kitty dắt nàng về phòng đã dành sẵn cho Kitty. Bên trong đồ đạc ngăn nắp, sạch sẽ, trên tường có tấm biển lớn “Chào Kitty” do các trẻ em trên chiếc tầu Exodus viết. Karen ra mở cửa sổ, một khung cảnh tuyệt đẹp, núi đồi hùng vĩ hiện ra trước mắt Kitty. Lúc đó Bác Sĩ Lieberman bước vào trong phòng.
- Karen. Hãy để lúc khác... Cô sẽ gặp bà Freemont lúc khác...
- Chào Kitty. Karen chào rồi bước ra khỏi phòng.
- Chào cưng.
- Bà có thích căn phòng này không? Bác Sĩ Lieberman bắt đầu hỏi thăm Kitty.
- Vâng, tôi thấy rất tiện nghi.
- Bọn trẻ trên chiếc Exodus được tin bà sẽ đến, chúng nó làm việc cả ngày lẫn đêm. Đứa lau chùi quét dọn, đứa sơn nhà, đứa khác trải giường... Đứa khác trồng hoa. Các em yêu thương bà ghê lắm.
Nghe vị trưởng làng nói, Kitty cảm động.
- Các em không phải làm như vậy.
- Trẻ con có linh khiếu. Chúng biết ai là bạn, ai là thù. Cô muốn đi thăm làng chưa?
- Vâng. Tôi muốn lắm.
Bác Sĩ Lieberman gù lưng nên Kitty cao hơn ông ta hẳn một cái đầu. Vị bác sĩ chắp tay sau lưng, vừa đi vừa kể chuyện cho Kitty nghe. “Tôi đến từ Đức, năm 1933. Năm sau, nhà tôi (vợ) qua đời. Tôi dậy về Nhân Chủng Học trong viện đại học cho đến năm 1940, khi Harriet Saltzman yêu cầu tôi lên đây lập ngôi làng này. Cuộc đời tôi thuộc về đây”.
Bác Sĩ Ernest Lieberman, ông già lưng gù, người nhỏ thó đã chứng minh lòng yêu thương dân tộc cao cả của ông trong làng Gan Dafna. Không khí trong làng lúc nào cũng vui tươi như trại hè. Các trẻ em được hoàn toàn tự do đi lại cũng như tư tưởng. Các lớp học được xếp đặt ngoài trời để cho các em sống gần với thiên nhiên.
Trẻ em của Bác Sĩ Lieberman đến từ những vực sâu trên trái đất, từ những khu tập trung bẩn thỉu ghetto, sống sót qua những trại tử thần Quốc Xã. Tuy nhiên trong Gan Dafna chưa hề có chuyện kỷ luật xẩy ra, cứng đầu, trộm cắp cũng không có. Các trẻ em được khuyến khích vấn đề tự quản, tự giác, và làm cảnh sát với niềm hãnh diện chung.
Click for Section 6
Click for Section 6
No comments:
Post a Comment